Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

SỰ THẬT LỊCH SỬ


- Sự thật lịch sử
Lữ Giang
Năm nay, nhân kỷ niệm 55 năm biến cố Điện Biên Phủ (1954 – 2009), hôm 7.5.2009 vừa qua, phóng viên đài BBC đã phỏng vấn Giáo Sư Nguyễn Quang Ngọc, Viện Trưởng Viện Việt Nam Học ở Hà Nội, về những tài liệu mà Trung Quốc đã công bố liên quan đến sự trợ giúp và vai trò của Trung Quốc trong chiến thắng Điện Biên Phủ. Giáo Sư Ngọc thừa nhận rằng những thông tin đó đã làm nhiều người Việt Nam lúng túng. Nhưng ông cho biết giới nghiên cứu Việt Nam cũng đã có nhiều bằng chứng để phản ứng lại cách đưa tin của Trung Quốc.
Thật ra, tài liệu của Trung Quốc không chỉ nói về sự viện trợ và vai trò của Trung Quốc trong trận Điện Biên Phủ, mà trong cả cuộc chiến chống Pháp của Việt Minh từ 1959 đến 1954. Đây là những tài liệu đã làm đảng CSVN nhức nhối, vì nhiều sự thật khó phủ nhận đã được phơi bày ra ánh sáng.
TÀI LIỆU ĐƯỢC TIẾT LỘ
Các sử gia và các nhà phân tích đều cho rằng tương quan giữa Hoa Kỳ và VNCH cũng như tương quan giữa Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) và CSVN trong cuộc chiến Việt Nam đều là những chương bi thảm.
Tài liệu về những tương quan giữa Hoa Kỳ và VNCH đã được giải mã gần hết và ai muốn nghiên cứu cũng được, nhưng đến nay những tài liệu đó vẫn chưa được hệ thống hoá và phân tích để làm bài học lịch sử vì người Mỹ thấy rằng công việc đó có thể phương hại đến chính sách đối ngoại hiện tại của họ, còn đa số người Việt chống cộng rất sợ sự thật và có khi còn tìm cách chống lại sự thật vì muốn tiếp tục sống với huyền thoại của một thời dĩ vãng xa xưa.
Trái lại, mặc dầu gọi nhau “vừa là đồng chí vừa là anh em”, nhưng vì có những giai đoạn đã xẩy ra các cuộc tranh chấp gay cấn, nên các tài liệu về tương quan giữa CSTQ và CSVN đã được hai bên chính thức công bố để tố cáo nhau trước công luận. Nhờ những tài liệu này chúng ta đã thấy được nhiều mặt trái đàng sau mối tương quan giữa CSTQ và CSVN, và CSVN đã từ từ bớt “cường điệu” về “đỉnh cao trí tuệ loài người” của họ.
Như chúng tôi đã nói, sau khi bị Trung Quốc “dạy cho một bài học” vào năm 1979, CSVN đã cho công bố hai tài liệu quan trọng để tố cáo CSTQ:
1.- Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua.
2.- Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong hai tài liệu này, CSVN đã chơi CSTQ cạn tàu ráo máng.
Để đáp lại, nhân 50 năm kỷ niệm trận Điện Biên Phủ (1954 – 2004), CSTQ đã cho công bố một tập tài liệu có nhan đề “Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”. Tài liệu này được viết dưới hình thức hồi ký do những người trong cuộc ghi lại. Tuy nhiên, với vai trò đàn anh và kẻ cả, các tác giả đã không viết theo lối hằn học như tài liệu của đảng CSVN, mà viết một cách rất lịch sự và nhẹ nhàng nhưng rất thấm thía, ngầm cho thế giới biết rằng không có CSTQ không có chiến thắng Điện Biên Phủ, không có Hiệp Định Genève năm 1954 trao một nữa nước Việt Nam cho đảng CSVN.
VIỆN TRỢ TO LỚN CỦA TRUNG QUỐC
Như chúng tôi đã chứng minh nhiều lần, từ 1946 đến 1949, bị Pháp đuổi, Việt Minh chỉ có bỏ chạy. Nhưng một biến cố bất ngờ xẩy đến đã giúp Việt Minh lật lại thế cờ, đó việc Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch và thành lập chính phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc vào ngày 1.10.1949. Hồ Chí Minh liền xin Mao Trạch Đông giúp Việt Nam chống Pháp.
Vì phạm vi bài báo có giới hạn, chúng tôi xin tóm lược lại dưới đây những sự kiện chính về sự viện trợ và vai trò của Trung Quốc trong cuộc chống Pháp của đảng CSVN (lúc đó gọi là đảng Cộng Sản Đông Dương). Tài liệu này do các cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba, Trương Quảng Hoa, Vi Quốc Thanh, Vu Hoá Thầm, v.v... biên soạn.
1.- Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc
Chúng ta hãy nghe ông La Quý Ba, Trưởng Phái Đoàn Cố Vấn Trung Quốc đầu tiên kể lại:
“Trung Quốc mới ra đời chưa được bao lâu, mùa đông năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Mao Chủ Tịch, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc cung cấp viện trợ và cử người sang giúp Việt Nam.
“Tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp.
“Trung ương Đảng ta theo yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương...”
Cố vấn Trương Quảng Hoa kể rõ hơn:
“Một buổi chiều hạ tuần tháng 1/1950, trên đường đất gồ ghề ở huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, có một ông già, thân hình gầy gò, đầu quấn khăn mặt đi đến cửa Thủy Khẩu, Long Châu – Quảng Tây, Trung Quốc. Ông già đó chính là Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương). Cùng đi với Hồ Chí Minh có Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách công tác hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam và năm, sáu trợ lý.
“Chuyến đi này của Hồ Chí Minh hoàn toàn bí mật, ngay cả lãnh đạo Trung ương Đảng Việt Nam cũng chỉ có số ít người biết.
“Hồ Chí Minh vừa chủ trì triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 Đảng Cộng sản Đông Dương, khi phân tích tình hình đấu tranh trước mắt, toàn thể hội nghị nhất trí cho rằng: “Thiếu quân chính quy, thiếu binh chủng và vũ khí hạng nặng công kiên, đánh thành, thiếu phương tiện thông tin nhanh, thiếu cán bộ thực sự hiểu được thao lược chỉ huy vận động chiến” là vấn đề lớn nhất đặt ra trước mắt cuộc chiến tranh chống Pháp lúc bấy giờ. Vì vậy hội nghị nêu rõ, cần phải gấp rút đào tạo và xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng bộ đội chủ lực thích ứng với tình hình đấu tranh mới. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Hồ Chí Minh là thông báo tình hình đấu tranh chống Pháp của Việt Nam với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc giúp xây dựng quân đội và cử nhân viên quân sự và viện trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam...
“Sáng ngày 27/6 các lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà Nước: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức thân mật tiếp hơn 40 nhân viên cố vấn của Bắc Kinh tại Di Niên đường, Trung Nam Hải. Mao Trạch Đông nói:
“Không phải tôi muốn cử các đồng chí sang Việt Nam, mà là Chủ Tịch Hồ Chí Minh đến Trung Quốc yêu cầu chúng ta. Cách mạng chúng ta thắng lợi trước, nên giúp đỡ người ta, giúp họ gọi là chủ nghĩa quốc tế ”.
2.- Tình trạng của Việt Minh trong bốn năm đầu
La Qúy Ba đã mô tả tình trạng của Việt Minh trong bốn năm đầu như sau:
“Quân Pháp tiến hành bao vây, phong tỏa, chia cắt và không ngừng tiến công quân sự và bắn phá điên cuồng vào căn cứ địa kháng chiến vùng núi Việt Bắc. Lúc này, tình hình chiến trường ở vào giai đoạn cầm cự: Quân Pháp không thể chinh phục quân dân Việt Nam, quân dân Việt Nam nhất thời cũng khó phát động phản công, chỉ có thể phân tán đánh du kích.”
KHAI THÔNG BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG
Cố vấn La Qúy Ba nói về công việc đầu tiên phải làm như sau:
“Bước đầu tiên viện trợ Việt Nam là phải khai thông giao thông biên giới Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm con đường giao thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu thế số một.
1.- Chọn điểm đánh
Cố vấn La Qúy Ba cho biết:
“Chỉ có hai sự lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên giới Trung-Việt: một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng Tây; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng trước hay đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Trung ương Đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu, suy nghĩ trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 2.7.1950, Mao Chủ tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam:
“Đồng ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyết định cuối cùng. Sau này tác chiến như thế nào do chính các đồng chí căn cứ vào tình hình cụ thể quyết định. Nếu chúng tôi có ý kiến, cũng chỉ để các đồng chí tham khảo. Bởi vì các đồng chí hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi”.
2.- Chuẩn bị trận đánh
“Đồng chí Trần Canh là vị tướng được Hồ Chí Minh điểm danh với Mao Chủ Tịch và Trung ương đảng ta. Mao Chủ Tịch, Trung ương đảng ta cử đồng chí Trần Canh làm đại diện của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sang Việt Nam giúp tổ chức chỉ huy chiến dịch Biên Giới, đoàn cố vấn quân sự đã tham gia chiến dịch biên giới...
“Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch Biên Giới, Mao Chủ Tịch, Trung ương Đảng đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa một bộ phận quân đội nhân dân Việt Nam đến vùng núi Văn Sơn, Vân Nam, chỉnh đốn đội hình, trang bị, huấn luyện, đồng thời giúp bộ phận quân đội này biên chế thành hai đại đoàn (tức 2 sư đoàn) hình thành hai quả đấm, đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch biên giới...
3.- Mở màn trận đánh
“Ngày 16/9, chiến dịch Biên Giới bắt đầu. Đêm 16/9, Trung đoàn 174 bộ đội chủ công được pháo binh phối hợp, mở cuộc tấn công quân địch ở Đông Khê (cách Cao Bằng 43km). Dưới sự yểm trợ của các loại hoả lực, Quân đội Nhân dân Việt Nam lần lượt chiếm lĩnh một số cứ điểm ngoại vi Đông Khê, nhưng triến triển chậm chạp sau khi tiến gần tới trung tâm phòng ngự của địch. Sáng sớm ngày 17, địch phản kích dưới sự yểm trợ của máy bay. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm, chỉ huy không kịp thời, nên rút lui khỏi trận địa đã chiếm lĩnh.
“Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh biết được tình hình này hết sức lo lắng, lập tức đến bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân, gặp Võ Nguyên Giáp, cùng nghiên cứu nguyên nhân tấn công bị thất bại, ra lệnh cho bộ đội điều chỉnh sự bố trí, bao vây chặt, đề phòng địch phá vây, đến tối sẽ tấn công lại...”
4.- Kết quả như thế nào?
Tài liệu cho biết:
“Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc điều tra ra, quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có hơn 2 đại đội, không đến 400 tên, quân đội Việt Nam với binh lực 7000 người, tấn công hai đêm, thương vong 500 người mới thắng. Mặc dù cái giá rất lớn, nhưng mục tiêu bước đầu của chiến dịch đã đạt được, tức là một thắng lợi không nhỏ.”
Ngày 14.10.1950, Hồ Chí Minh gửi cho Mao Trạch Đông một văn thư có nội dung như sau:
“Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn trong chiến dịch Thất Khê – Cao Bằng (Ghi chú: Hồ Chí Minh viết lộn: Thật ra là đồn Đông Khê thuộc Cao Bằng. Thất Khê cũng ở gần đó nhưng thuộc Lạng Sơn. Cả hai nằm trên quốc lộ 4 nối Lạng Sơn với Cao Bằng. Tôi đã viết về trận này). Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô, sự nhiệt tình cảm động của các đồng chí Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông không nề hà gian khổ chấp hành chỉ thị của các đồng chí trực tiếp để giúp đỡ chúng tôi. Tôi cần nêu lên công lao đặc biệt của Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quý Ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn trong chiến dịch. Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo: “Cảm ơn các đồng chí”, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô anh em”.
Tuy thiệt bại không có lớn, nhưng Tướng Carpentier của Pháp rất ngạc nhiên vì Cộng quân đã xử dụng súng đại bác 75 ly và 105 ly để tấn công. Từ trước không hề có chuyện đó. Pháp bắt đầu nhận ra rằng Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Minh để chống lại Pháp.
HUẤN LUYỆN VÀ TRANG BỊ CHO VIỆT MINH
Cố vấn Vi Quốc Thanh cho biết
“Hiện nay (tức lúc đó) Việt Nam thành lập 3 đại đoàn (sư đoàn), có đại đoàn vừa mới thành lập sau khi La Quý Ba đến Việt Nam. Ý kiến của phía Việt Nam là ngoài cơ quan Bộ Tổng tham mưu ra, bước thứ nhất phải chọn cử cố vấn các cấp của ba sư sang Việt Nam”.
Cố vấn Vu Hoá Thầm cho biết thêm:
“Trần Canh và Vi Quốc Thanh thông qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp và nghe Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình, đã hiểu được tình hình cơ bản của hai phía địch và bạn, và tình hình chuẩn bị chiến dịch:
“Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam tuy đã bước vào năm thứ năm, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam về cơ bản vẫn ở giai đoạn đánh du kích, chưa qua chiến đấu đánh, tiêu diệt một tiểu đoàn địch hoàn chỉnh trở lên. Hiện nay tuy đã thành lập 2 đại đoàn (đại đoàn 304 và 308) và 3 trung đoàn độc lập (trung đoàn 174, 209, 148) nhưng đại đoàn đoàn đều chưa qua tác chiến tập trung, trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tác chiến tập trung, về cơ bản vẫn là lấy tiểu đoàn, đại đội làm đơn vị phân tán tiến hành chiến tranh du kích.
Cố Vấn La Qúy Ba nói rõ:
“Trong mấy năm công tác tại Việt Nam, tiến hành viện trợ và giúp đỡ Việt Nam, bất kể là cung cấp viện trợ cho Việt Nam bao gồm vũ khí đạn dược, trang bị quân sự, lương thực, vải vóc, thuốc men y tế, máy móc thông tin, phương tiện giao thông, các loại thực phẩm v.v... hay bất kể là giới thiệu kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Trung Quốc cho Việt Nam, giúp Việt Nam tác chiến và công tác, chúng tôi đều làm theo chỉ thị và dạy bảo đó của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.”
Với lực lượng yếu kèm lúc ban đâu như vậy, nhưng nhờ được viện trợ dồi dào và sự huấn luyện của các cán bộ Trung Quốc, quân đội Việt Minh đã ngày càng lớn mạnh và có thể đương đầu với Pháp. Chúng ta thấy, trong trận Điện Biên Phủ, Việt Minh và Trung Quốc đã huy động được một lực lượng hùng hậu như sau:
Ba sư đoàn 304, 308 và 312, mỗi sư đoàn có đủ toàn bộ 3 trung đoàn. Sư đoàn 316 với 7 tiểu đoàn và một tiểu đoàn pháo. Sư đoàn 351 gốm có: Trung đoàn pháo 675 với 15 đại bác sơn pháo 75 ly và 20 súng cối 120 ly; Trung đoàn 41 với 3 tiểu đoàn pháo 105 ly; và Trung đoàn phòng không 367 với 36 súng cao xạ kiểu Liên Sô. Tất cả lực lượng này đều do Trung Quốc huấn luyện và trang bị.
Tính chung Cộng quân đã xử dụng 63.000 quân chính quy cho trận Điện Biên Phủ, trong đó có 50.000 đối điện tại mặt trận và 13.000 phụ trách việc yểm trợ. Ngoài ra, có khoảng 30.000 dân công được huy động để khuân vác đạn dược và lương thực. Trên 600 xe vận tải kiểu Molotova được xử dụng để vận chuyển trên một con đường dài 1.000 cây số từ các tỉnh Trung Hoa đến Điện Biên Phủ. Một đạo quân xe thồ và gồng gánh cũng được huy động để đưa tiếp liệu từ hậu phương ra tiền tuyến.
Hiện nay đang có tranh luận về kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ và điều khiển trận chiến này là do các cố vấn Trung Quốc hay do “đỉnh cao trí tuệ loài người” của đảng CSVN. Các tài liệu của Trung Quốc mới công bố cho thấy các cố vấn Trung Quốc đã đóng vai trò chính trận chiến Điện Biên Phủ. Đảng CSVN đã chỉ thị cho các cấp tìm tài liệu để phản chứng ngược lại, nhưng chưa thấy công bố. Đây là chuyện dài chúng tôi sẽ trình bày trong một dịp khác.
TẠI SAO GIÚP VIỆT NAM?
Cố Vấn La Qúy Ba cho biết:
“Trong tình hình trong nước, quốc tế lúc bấy giờ rất nghiêm trọng, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn rất lớn, Mao Chủ Tịch, Trung ương Đảng vẫn không chút do dự quyết định viện trợ cho Việt Nam chống Pháp, ra sức cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế vô tư và không hoàn lại cho Việt Nam, cử cố vấn sang giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Điều đó chứng tỏ đầy đủ tinh thần quốc tế vô sản vĩ đại của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.”
Còn Mao Trạch Đông tuyên bố:
“Bọn xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc; Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp, lập lại hoà bình ở Việt Nam, đó là Trung Quốc giúp Việt Nam. Còn Việt Nam đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải toả khỏi mối đe doạ của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc, là sự giúp đỡ lẫn nhau”.
Trong tập “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”, đảng CSVN cho biết rõ hơn.
Chủ Tịch Mao Trạch Đông khẳng định:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á bao gồm miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Một vùng như Đông Nam Châu Á rất giàu, ở đây có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy...”
Còn Thủ Tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước chúng tôi lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao Động Việt Nam mở cho một con đường xuống Đông Nam Châu Á.”
Nói một cách khác, Trung Quốc muốn biến Đảng CSVN thành một tên lính đánh thuê (mercenary) của Trung Quốc.
KẾT QUẢ TAI HẠI
Khi nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Trung Quốc, đảng CSVN phải thi hành chính sách “cải tạo xã hội chủ nghĩa” rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc, điển hình nhất là chính sách cải cách ruộng đất.
Bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000”, tập 2, (giai đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, với khoảng 10 triệu dân. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68%. Các đội và các đoàn Cải Cách Ruộng Đất đều ra sức truy bức để cố đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như đã quy định. Như vậy tổng số người bị quy là “địa chủ” phải là trên 500.000 người. Cũng theo tài liệu này, có 172.008 người đã bị đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy trong số 172.008 nạn nhân của cuộc Cải Cách Ruộng Đất, có đến 123.266 người được coi là oan (chiếm đến 71,6%).
Sau đây là những con số cụ thể về các nạn nhân:
Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó số được coi bị oan là 20.493 người (77,4%);
Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó số được coi bị oan là 51.480 người (62,19%);
Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó số được coi bị oan là 290 người (49,4%);
Phú nông: 62.192 người, trong đó số được coi bị oan là 51.003 người (82%).
Khi đảng CSVN không đi theo đường lối “cải tạo xã hội” của Mao Trạch Đông mà theo đường lối của Liên Sô, Trung Quốc đã “dạy cho Việt Nam một bài học”!
Qua các sự kiện lịch sử được công bố, các sử gia và các nhà phân tích đều đi đến kết luận rằng nếu năm 1945 đảng CSVN không đưa đất nước Việt Nam đi theo chủ nghĩa cộng sản, dùng dân tộc Việt Nam làm vật thí nghiệm cho một chủ nghĩa phiêu lưu, Việt Nam đã thoát khỏi một cuộc chiến kéo dài 30 năm với những hậu quả rất thảm khốc. Nếu không có đảng CSVN, nước Việt Nam đã có độc lập và tự do từ lâu rồi.
Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ ngay chính trung tâm đầu nảo của nó và các nuớc cộng sản còn lại, kể cả đảng CSTQ và đảng CSVN, đã không theo chủ nghĩa cộng sản nữa mà đi theo kinh tế thị trường. Điều này chứng tỏ cả đảng CSTQ lẫn đảng CSVN đã mặc thị nhìn nhận đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm.
Về sự viện trợ và vai trò của Trung Quốc trong trận Điện Biên Phủ, Giáo Sư Nguyễn Quang Ngọc, Viện Trưởng Viện Việt Nam Học ở Hà Nội, đã nói:
“Trước đây, phần nào các nhà nghiên cứu không quan tâm tài liệu Trung Quốc. Nhưng sau việc Trung Quốc công bố, đã có nhiều hội thảo ở Bắc Kinh, nhiều nơi khác. Tài liệu của các bên đã được khai thác, để nhìn nhận khách quan hơn. Chứ bây giờ nếu thảo luận, mà anh nào cũng chỉ biết tài liệu của mình, khai thác có lợi cho mình thì như vậy là phi khoa học.”
Nói cách khác, lối viết sử một chiều, “ta hay địch dỡ”, “ta thắng địch thua”... mà đảng CSVN và đa số người Việt chống cộng ở hải ngoại đã theo đuổi trong mấy chục năm qua, sẽ phải nhường chỗ cho những sự thật lịch sử đang dần dần xuất hiện.
Lữ Giang
(12.5.2009)

BỘ MẶT THẬT CỦA CSVN SAU NGÀY 30-4-1975



Bộ mặt thật của CSVN sau ngày 1-5-1975

Vài giờ, sau khi chiếc trực thăng cuối cùng chở toán quân của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Jim Kean, rời nóc bằng của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Miền Nam VN, để bay ra biển Ðông, lên hạm về nước, trong danh dự. Cũng là lúc bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn bỏ ngỏ, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Cái bi hài của vở kịch, nước mắt trước cơn mưa, là lúc mà chính phủ hai ngày của VNCH đang hồ hởi hòa hợp hòa giải, để chờ chim bồ câu trắng hòa bình hiện ra, thì cũng là giờ G ngày N của Hà Nội đã điểm.
Ðây cũng là thời khắc mà tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Q.Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, nhân danh TT Minh, ra lệnh cho các Ðơn Vị Miền Nam đang phòng thủ quanh Sài Gòn, phải cố giữ vững vị trí chiến đấu, chờ sáng để nhận được phép lạ từ trên trời rớt xuống. Lúc đó, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya đêm 29 rạng sáng ngày 30-4-1975. Ðây là giờ qui định của Bộ Tư Lệnh Miền do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần văn Trà chỉ huy... ban lệnh cho B3 hợp đồng, với tất cả các lộ quân từ năm hướng, đồng loạt tấn công vào nội thành thủ đô. Ðó cũng là thời gian lộ mặt của các đội Biệt Ðộng, Ðặc công... từ các nơi nằm vùng, nổi dậy bắt liên lạc với các cánh quân bên ngoài. Ðó là giờ qui định cho tất cả cán bộ đảng, cán bộ chính trị nằm trong hàng ngũ VNCH, lột mặt nạ cầm đầu sư đoàn 304 quàng khăn đỏ, đang có mặt khắp thôn làng hẻm phố, sẵn sàng tiếp thu chiến lợi phẩm và còng bắt tù binh, nếu cần hạ sát tại chổ..
Cũng từ đó lịch sử dân tộc được lật sang trang, chấm dứt một cuộc chiến dơ bẩn nhất tại VN, do cọng sản dàn dựng từ đầu đến cuối, với mục đích tạo cảnh chiến tranh, để đổi đời, nắm quyền, do một thiểu số cùng đinh cực ác trong xã hội xướng xuất.
Cho nên thành phố Sài Gòn, một địa danh được các vị chúa Nguyễn và người dân Ðại Việt tạo dựng bằng mồ hôi máu mắt, từ ba trăm năm trước, cũng bị mất tên và được gán vào danh xưng Hồ Chí Minh (đại phản tặc của dân tộc, mà đời đời kiếp kiếp bị bia miệng nguyễn rũa.), như những thành phố tại Nga Sô Viết, trong thời kỳ cách mạng tháng mười năm 1917. Xin mượn những lời thơ hào hùng của Lê Khắc Anh Hào và bắt chước Trạch Gầm, được chưởi cha tên Hồ Tặc và bè lũ CSVN “buôn dân bán nước” đã và đang mở cửa rước voi Tàu vào giầy Mã Tổ Việt, không phải chỉ ở Lâm Ðồng, Quảng Ðức tại cao nguyên Trung phần, mà khắp non sông xã tắc từ Hải Ninh vào tận Cà Mâu, mà hiện nay toàn dân trong và nước ai cũng biết, cũng oán hận căm thù trước hành vi phản quốc có một không hai trong dòng Sư Việt : Có kẻ vô tình hỏi thử taCó dám nói một lờiHồ Chí Minh suốt cả cuộc đờiChỉ là một tên PHẢN QUỐC
Tại sao không ?Ðúng ! Hồ Chí Minh là mầt tên phản quốc !Ta có thể chẻ từng cọng tócLấy từng phân lần ra tội họ HồMột kẻ cam chịu làm thân con chó nhỏCho tên thầy vĩ đại Liên XôÐầy đọa muôn dânXé nát cơ đồKẻ như thế thì nói một lời phản quốc đâu đủ chỗ !Thời đại văn minhLúc cả thế giới đang vươn lên hăm hởThì ở VN toàn dân gần như đóng khốNgười sống vật vờ đầu đường xó chợKẻ chết trăm năm còn đau thân dưới mộHắn phản quốc và hắn là đồ bỏCâu trả lời chả có gì là khó !
Hồ Chí Minh là tên phản quốc!Ta muốn hét vỡ tinh cầu để nói thật ,Vạn lần mà chả sợVì trong tim ta vẫn còn máu đỏCủa một VN vong quốc đoạn trườngTóc bạc màu theo từng cọng đau thươngTa mất quê hương, Hồ là thủ phạmTại sao người lại hỏi ta CÓ DÁM ??(CÓ DÁM , Thơ Lê Khắc Anh Hào)
Cũng nhờ cách mạng, giải phóng nên từ đó tới nay, đồng bào cả nước, trước sau rủ nhau xuống hố xã hội chủ nghĩa, để tìm thiên đàng Mác-Lê-Mao-Hồ, trong vũng bùn duy vật biện chứng pháp, mà gần hết nhân loại đã ném vào cát bụi, từ những năm đầu thập niên, cuối thế kỷ XX khi Liên Xô, Ðông Ðức, Ðông Âu tan hàng, trước chủ nghĩa tự do, dân chủ, mà không cần phải đốt rụi Trường Sơn, giết hại hằng triệu triệu người Việt của hai miền.
Một trăm hai mươi lăm nhà báo da trắng, da màu đủ loại nhưng tuyệt đối đều sùng bái VC như thần thánh, trong suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), sau ngày bị chính quyền mới trục xuất , đều viết : ‘Quang cảnh Sài Gòn ngày hôm đó cũng vẫn như mọi ngày. Nếu có khác biệt, đó là sự hiện diện của những bộ đội miền bắc, với quân phục may bằng vải kaki nội hóa màu xanh lá cây, đầu đội cối có gắn sao, chân mang dép râu làm bằng vỏ xe phế thải. Tất cả ngơ ngơ ngáo ngáo như người cõi trên, trước cái cảnh trang đài sang giàu lầu cao phố đẹp của Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Ðông, không giống với luận điệu tuyên truyền của đảng... là dân nguỵ bị Mỹ-Thiệu kềm kệp, nên nghèo mạt rệp, rách đói đến nỗi, ngay cả trí thức nhà báo khao bảng, cũng phải đi ăn mày.. ’ ’ Tóm lại Sài Gòn ngày đó như mọi ngày, chẳng thấy ai tiếp đón ai, cũng không có cảnh biểu tình đồng khởi hoan hô mà đảng hằng mong đợi. Người Sài Gòn đã dững dưng trước thời cuộc, như chưa hề biết là đã đổi đời.
Củng hôm đó, trên đại lộ Thống Nhất dẫn vào Trung tâm quyền lực nhất của Nam VN. Ðó là Dinh Ðộc Lập, mà mới vài giờ trước đây, chính khứa quan quyền đủ loại ra vào tấp nập để xin quan mua chức. Nay quang cảnh vắng hoe, kể cả người lính gác cổng cũng cao bay xa chạy, đang được bộ đội Bắc Việt, tùng thiết trên mấy chiếc T54 của Liên Xô viện trợ, tới tiếp thu một căn cứ quân sự bỏ ngỏ, không phòng thủ.
Một vài chục tên Việt gian thời cơ, trở cờ, cánh tay mang băng đỏ, tay khác cầm cờ máu, lá cờ mà mấy chục năm nay cứ khoe là của nước Việt, mặt thật là sao chép y chang cờ máu của đảng Tàu Cộng, ngược xuôi xuôi ngược hò hét lập công. Nhưng mùa xuân có trăm hoa đua nở, có vạn vật hài hoà.. cho nên với một lá cờ máu tạo dựng bằng núi xuơng sông máu đồng bào, bán nước bán đất, tiêu diệt tín ngưỡng cùng văn hiến dân tộc, đang do một đám sâu bọ đội lớp người trí thức dân chủ, cổ võ bung xung, thì làm sao dựng nổi một mùa xuạn ? Văn Tiến Dũng, Bùi Tín quen tuyên truyền nên đã loạn ngôn cuồng bợ, viết sai các dữ kiện lịch sử trong ngày “Sài Gòn bỏ ngỏ tháng 4-1975, từ lúc Dương Văn Minh phát tiếng trong đài, ra lệnh QLVNCH, phải buông súng đầu hàng quân Bắc Việt “, qua các tác phẩm mang tên “Mùa Xuân Ðại Thắng, Ánh Sáng của lịch sử …”
Hôm đó phường phố Sài Gòn thật sự vắng hoe, cũng không có cảnh xuống đường với biển người rừng cờ như Hà Nội và đám Việt Gian Miền Nam mong đợi, để nhờ bọn ký giả phương tây thân cộng lúc đó, quay phim chụp ảnh, tuyên truyền với thế giới bên ngoài rằng là cách mạng giải phóng đã thành công.. Chỉ có một vài kẻ đa sự, tình cờ hay bị bắt buộc, bặm môi dừng lại bên đường, để trố mắt nhìn bộ đội miền bắc và tăng pháo do Nga-Tàu viện trợ, mà mới hôm qua đọc trên các báo chí đối lập Sài Gòn, nói là quân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, do anh Tho, chị Bình, chị Ðịnh… chỉ huy để chống lại chính phủ VNCH tham nhũng, gian ác, đàn áp tôn giáo, ngăn cấm tự do…
Chỉ có đám dân chiến nạn từ miền Trung, di tản theo lính vào Sài Gòn, giờ bơ vơ đói rách, bồng bế nhau hồi cư theo lệnh của chủ mới. Chỉ có những quân, công, cán , cảnh Miền Nam tan hàng rã ngủ, biết thân phận mình, rủ nhau tới các địa điểm trình diện. Sau rốt là đại đa số dân nghèo cưc, không có phương tiện hay chẳng bao giờ mơ ước xuất ngoại, nên đành ở lại với cảnh tranh tối tranh sáng, kéo tới các kho đụn, nhà giàu, sở Mỹ cùng dinh thự đồ sộ của các quan tướng.. đã bỏ chạy, để hôi của kiếm ăn. Sài Gòn mặt thật của những phút giờ đổi đời là thế đấy. Hiện có nhiều nhân chứng hôm đó, chắc là còn sống, tuy tuổi đã cao nhưng không mất trí nhớ, đang ở khắp các nẻo đường hải ngoại, thì ai dám bẻ cong ngòi bút, lếu láo vẽ rắn thêm chân, đem thúng úp voi, dấu đầu lòi đuôi cho được ?
Người dân Sài Gòn cố gắng mở to đôi mắt hôm đó, để tìm trong hàng ngũ bộ đội tân lập 304 băng đỏ, cũng dép râu, nón tai bèo và khăn rằn xanh quàng cổ, hình dáng thân thương của các thầy, quý cha, anh chị em văn nghệ sỹ.. từng hò hét khản cổ, kêu gọi phản chiến, hòa hợp hòa giải năm xưa. Nhưng hỡi ơi, trong đó tìm hoài đâu thấy một ai. Các vị chỉ muốn đấu võ mồm, đâm sau lưng người lính, phá thối chính quyền đương thời. Ðến lúc nhà tan nước mất, giặc Bắc không hòa hợp mà chỉ xâm lăng, cướp của giết đồng bào… thì các vị cũng đã nhanh chân ôm Mỹ, để kịp chạy ra hải ngoại, tiếp tục đối lập trọn đời, để lần nữa phá thối cuộc sống tạm dung chốn quê người, của những thân phận VN, cũng vì họ mà ngày nay phải sống đầu đường xó chợ, khác nào những tên nô lệ Pháp, Mỹ, trên vạn nẻo đường lưu vong, lấy nước mắt làm canh, đêm ngày hoài mơ viễ n xứ, thương khóc tưởng nhớ quê mình.
Bảy mươi chín năm trôi qua (1930-2009), dù bây giờ chuyện gì người dân cũng đã biết đủ. Thế nhưng cọng sản và Việt gian, thì chứng nào tật đó, vẫn tỉnh bơ hãnh diện, tiếp tục gian dối bịp lừa đồng bào. Tóm lại, đối với cọng sản, tất cả chỉ là giai đoạn, nên không bao giờ có chuyện tình nghĩa đồng chí, đồng đảng, đồng đội.. thì nói làm chi tới tình đồng bào, đồng nước. Cũng nhờ gần hết bí mật lịch sử cân đại, được khai quật phổ biến, nên ngày nay chúng ta mới nhận diện được bộ mặt thật của những người, từng ôm nhau hôn hít, từng nhận là anh em môi hở răng lạnh hay sông liền sông, núi kế núi.. thế nhưng cũng chẳng có gì, ngoài nhu cầu hợp tác và giai đoạn.
Sau năm 1990, Liên Bang Sô Viết và Nam Tư tan rã thành từng mảnh vụn. Những người mới đó cùng đứng chung dưới một màu cờ, một đảng bộ.. đã vội bôi mặt chém giết nhau một cách tận tuyệt. Tuy nhiên bi thảm hơn hết, vẫn là sự tương tàn đẫm máu, giữa ba đảng Tàu, Việt và Miên Cộng.. xảy ra từ các năm cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, sau khi đệ tam quốc tế đã tạm hợp tác, thỏa hiệp chống Mỹ thành công. Từ kinh nghiệm năm đó, giờ nhìn lại thái độ lưng chừng của Việt Cộng, trong vai trò chọn lựa để được làm đầy tớ Hoa Kỳ hay Trung Cộng, khiến cho đồng bào trong và ngoài nước phải ngao ngán, vì biết chắc dù VC có theo ai chăng nữa, thì đất nước lần nửa, rồi sẽ tan nát nếu có chiến tranh xảy ra.
Lần trước Polpot và Ðặng Tiểu Bình mới chỉ có tàn sát đồng bào vô tội cũng như tàn phá tận tuyệt các tỉnh biên giới của VN. Lần này Trung Cộng binh hùng vũ khí tối tân, lại có nhiều tấn bom nguyên tử, chắn chắn là Tàu sẽ thẳng tay tiêu diệt con Hồng cháu Lạc cả nước, nếu đảng CSVN mà đại diện bán nước hiện nay là 13 tên trong chính trị bộ, dám giở thói lọc lừa ba que với chúng, khi đã nhận hàng tỷ đô la đút lót của Tàu phù, mà không trung thành với chủ theo lệnh “Hợp Tác Toàn Diện” mặt thật là bán nước cho giặc . 1 - KHMER ÐỎ TẤN CÔNG TÀU BUÔN HOA KÝ :
Nam Vang thất thủ trước Sài Gòn mười ba ngày (17-4-1975). Ðể chiếm thủ đô, Polpot đã ra lệnh cho Khmer đỏ, pháo kích bừa bãi dã man vào thành phố, gây thương vong nhiều người vô tội, tại các khu vực đông dân cư, làm tê liệt phi trường Pochentung. Vì vậy Ðại sứ Mỹ là John Gunther và tổng thống Lonnol (kẻ đã ra lệnh cáp duồng hằng vạn Việt Kiều tại Kampuchia năm 1970 ), nếu không nhanh chân chạy lên trực thăng vù ra biển, chắc cũng đã bị Polpot phanh thây như triêu người dân Miên khác bị kẹt lại.
Ngay khi chiếm được nước, các lãnh tụ Miên đỏ đã bất chấp luân thường đạo lý, ra lệnh tàn sát gần hết đồng bào mình, một cách rùng rợn. Thảm trạng có một không hai trên, đã khiến cho nhân loại, dù ở tận phương trời góc biển, đã phải xanh mặt, tím ruột, khi được đối diện với mặt thật của những hung thần cọng sản quốc tế, qua hình ảnh của địa ngục trần gian ‘ The Killing Fields (Những cảnh đồng xác người )’.
Ngoài ra theo lệnh chủ mới là Tàu Cộng, Polpot trả ơn Việt Cộng, chủ cũ cũng là kẻ đã cưu mang chúng từ khi còn trong trứng nước, tới hồi lớn mạnh, bằng cách tấn công biên giới, biển đảo, để mong chiếm lại miền Thủy Chân Lạp của 300 về trước, đã bị VN tới khai thác khi bị bỏ hoang.
Polpot cũng đã mở màn cho cuộc chiến Ðông Dương lần thứ III (1975-1990), bằng lệnh khai hỏa vào chiếc tàu buôn của Mỹ tên Mayaguez, trong lúc đang bỏ neo ngoài khơi hai đảo Kohtang và Poulo Wai (Ðảo Trọc), nguyên là lãnh thổ của VN, nằm trong vịnh Phú Quốc, bị Khmer đó chiếm sau tháng 4-1975.
Ngay khi bị lực lượng người Nhái của Polpot tấn công, thuyền trưởng chiếc tàu buôn trên, đã đánh khẩn điện về nước để cầu cứu và đã được chính Tổng Thống Mỹ lúc đó là Ford, ra lệnh cho TQLC cùng Không quân, đang ở căn cứ Utapao (Thái Lan), đến giải thoát họ. Nhưng Polpot khôn ranh, đã ra lệnh cho kéo chiếc tàu trên cùng thủy thủ đoàn 37 người, về giam tại hải cảng Kompong Som, trước khi TQLC Mỹ dùng trực thăng, đổ bộ lên đảo Poulo Wai, sáng ngày 15-5-1975.
Một trận ác chiến sau đó, đã xảy ra trên đảo Kohtang, giữa TQLC và quân Khmer đỏ. Kết quả có hai trực thăng Mỹ chở quân bi bắn hạ và ngay cả TQLC cũng bị vây khổn trong trận địa. Ðể giải vây quân tiếp viện cũng như chiếc tàu buôn đang bị bắt, lần nữa TT Ford ra lệnh cho KQ tại Thái Lan, oanh tạc Nam Vang và hải cảng Kompong Som, phá hủy nhiều máy bay Mig của Trung Cộng vừa viện trợ, đồng thời đốt rụi nhà máy lọc dầu duy nhất của Kampuchia tại hải cảng Sihanouk. Thấy Hoa Kỳ làm dữ quá, Polpot giả vờ đổ thừa cho địa phương vì phương tiện truyền tin eo hẹp, nên không nhận được lệnh Trung Ương, rồi ra lệnh thả chiếc tàu buôn cùng thủy thủ. Ngoài ra TQLC cũng được lệnh rút khỏi đảo Kohtang, bỏ lại xác hai chiếc trực thăng. Trong trận chiến này, có 15 binh sĩ Mỹ tử thương trong khi đụng độ.
Vụ tàu buôn Mỹ Mayaguez bị tấn công và 15 TQLC bỏ mạng, trên đường hồi hương, được Ford cùng báo chí giữ kín. Người Mỹ muốn gì khi im lặng hay thật sự đã nhìn thấy trước, cảnh huynh đệ tương tàn trong các đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Sau này qua các tài liệu đã giải mật, được Ford giải thích:“Ðó là sự châm ngòi cho ý nghĩa mới. Một cơ hội để cho các đảng cộng sản anh em tự thanh toán lẫn nhau, dọn đường cho tư bản trở lại Ðông Dương và Ðông Nam Á”. Cuối cùng Hoa Kỳ đã tiên đoán đúng. Từ thập niên 90 về sau, chẳng những các nước Ðông Dương, mà ngay cả Trung Cộng, Liên Bang Nga lẫn Bắc Hàn, đều trải thảm đỏ, mở cửa rộng, để quỳ đón Âu Mỹ, Nhật, Triều Tiên…đem đô la vào cứu đảng.
2 - CUỘC CHIẾN ÐẲM MÁU GIỮA VIỆT CỘNG VÀ MIÊN CỘNG :
Theo các tài liệu hiện hành, ta biết đảng cọng sản Cam Bốt được thành lập vào tháng 9-1951, qua danh xưng ‘ Ðảng Nhân Dân Cách mạng Khmer ố Khmer People ‘s Revolutionary Party ‘ thường viết tắt là KPRP. Polpot tên thật là Saloth Sar, người Việt gốc Miên. Trong thời gian du học tại Pháp, qua sự móc nối của một đảng viên VC tên Phạm văn Bá, từng hoạt đông tại Nam Vang, nên Polpot gia nhập đảng KPRP năm 1953. Hiệp định về Ðông Dương, ký tại Geneve 1954, ra lệnh cho đảng này giải tán. Do đó hơn 2000 đảng viên KPRP phải tập kết tới Hà Nội. Chính sự tan rã của đảng cọng sản Miên, là nguyên cớ sau này để Polpot vin vào lên án VC đã bán đứng đồng chí, khi cuôc chống Pháp của hai đảng đã đạt được thành công.
Tuy nhiên dù bị cấm đoán, cọng sản Miên vẫn âm thầm hoạt động lén lút, dưới sự lãnh đạo của Shieu Hang và Ton Samouth. Từ tháng 7-1962, Polpot mới được cử làm Bí thư đảng, hoạt động chung với Ieng Sary và Son Sen. Bắt đầu từ năm 1965 trở về sau, Mỹ ào ạt đổ quân vào Nam VN, làm cường độ chiến tranh càng lúc càng gia tăng. Tai Miên, ngoài mặt Sihanouk mang chiêu bài trung lập, nhưng đã gần như công khai để cọng sản Bắc Việt sử dụng lãnh thổ xứ chùa Tháp, làm căn cứ điạ dưỡng quân, đồn trú, lánh nạn và trực tiếp nhận viện trợ của khối cọng sản, tại hải cảng Sihanoukville. Mục đích cũng chỉ để trục lợi mà thôi. Trong giai đoạn này, Bắc Việt đã lập một đơn vị đặc nhiệm, gọi là P36 chuyên huấn luyện bộ đội Khmer đó của Polpot, cũng như ngăn cản không cho đụng chạm tới quân đội Hoàng gia Cam Bốt của ông Hoàng Sihanouk.
Năm 1970, lợi dụng Sihanouk xuất ngọai, tướng Lonnol và Hoàng thân Sirik Matak làm cuộc đảo chánh và đón quân Mỹ vào. Nhờ vậy gần như tất cả các căn cứ địa của bộ đội Bắc Việt và Khmer đỏ, trú đóng trên đất Miên bị tiêu diệt bởi Mỹ giội bom và các cuộc hành quân Toàn Thắng, của liên quân Hoa Kỳ-VNCH.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt, lần nữa hai đảng cọng sản anh em lại hợp tác để sống còn. Rồi lợi dụng tiếng tăm của Sihanouk, Bắc Việt dụ dỗ tuyên truyền dân chúng Miên gia nhập bộ đội, giúp cho lực lượng Khmer đỏ lên tới 30.000 quân. Tất cả đều do Hà Nội cưu mang, từ huấn luyện cho tới trang bị và tiếp tế. Trong những lần đụng độ với quân của Lonnol, bộ đội Bắc Việt luôn đi đầu hứng đạn, còn lính của Polpot thi đi sau, nếu thắng thì đòi chia chiến lợi phẩm. Ngược lại khi bộ đội Bắc Việt thua trận, quân Polpot lập tức bỏ chạy hay ác hơn là bắn lén sau lưng. Tình đồng chí của cọng sản là vậy đó.
Năm 1972, Polpot nghe lời dụ của cáo già Kissinger hợp mật. Nhưng đây chỉ là kế ly gián của Mỹ, nhằm gây rạn nứt giữa hai đảng cọng sản. Vì sau đó Mỹ đã oanh tạc từ 257-465 tấn bom xuống tàn phá gần hết các căn cứ của quân Khmer đỏ, rồi phao tin là Hà Nội đã chỉ điểm. Ðòn chí tử này đã khiến Polpot trở mặt chống Bắc Việt từ đó nhưng ngoài mặt thì giả vờ liên minh hợp tác.
Tháng 8-1974 Polpot hạ sát 71 đảng viên cong sản Miên thân Hà Nội. Tiếp theo vào tháng 9 cùng năm có 100 người khác cùng chung số phận. Nhưng trong số này có 2 người còn sống sót tên Hemsamin và Yospor trốn thoát tới Bắc Việt. Chưa hết, có 2 phóng viên Bắc Việt bị giết tại Kampong Chàm và trọn một phái đoàn của MTGPMN, từ Mỹ Tho vào tham quan vùng xôi đậu trong Ðồng Tháp Mười nhưng lại lạc qua Miên, bị Khmer đỏ phục kích hạ sát. Thêm vào đó, đã có hàng vạn Việt kiều bị Khmer đỏ cáp Duồng.
Tất cả Hà Nội đều biết, nhưng vẫn im lặng, đã vậy Bắc Bộ Phủ còn nỗ lực giúp cho Polpot chiếm được Kampuchia và Nam Vang vào ngày 17-4-1975. Ngoài ra để che dấu sự thật, mục đích phỉnh gạt đồng bào, lừa bịp dư luận thế giới, hằng ngày hai đảng vẫn ra rả lập đi lập lại những từ ngữ hào nhoáng tuyên truyền như ‘ Ðoàn kết vĩ đại, tình hữu nghi anh em cách mạng Cam Bốt-Việt Nam bất diệt.. ’ ’ Cuối cùng ngày 12-4-1975, Ieng Sary chính thức yêu cầu Trung Cộng, trực tiếp viện trợ cho Kampuchia mà không cần VN trung gian như từ trước.
Ðể mở màn cho bi kịch máu đã tới lúc chín mùi, ngày 4-5-1975, Polpot ra lệnh tấn công hai đảo Thổ Châu và Phú Quốc. Quân Khmer đỏ chém giết dã man hằng ngàn đồng bào vô tội, cướp của đốt nhà và trước khi rút, đã bắt 500 người VN, đa số là đàn bà con gái. Ðể trả đủa, ngày 18-5-1975, VC huy động hải lục không quân, tái chiếm hai đảo trên và đảo Pulau Wai mà Miên đã chiếm từ trước, bắt giữ 300 tù binh. Thấy VN làm dữ, Polpot lại xuống giọng. Rồi thì màn kịch đồng chí đồng đảng, được hai nước tô son trét phấn trở lại hằng ngày trên đài, trên báo, khi Mười Cúc-Nguyễn Văn Linh dẫn phái đoàn sang Cam Bốt thăm viếng xã giao ngày 2-6-1975. Ngược lại, Polpot cùng Ieng Sary và Noun Chen, trên đường sang chầu Trung Cộng, đã ghé Hà Nội để đáp lễ vào ngày 12-6-1975.
Tại Trung Cộng, tình hình nội bộ đảng cọng sản biến chuyển mạnh, sau khi Mao Trạch Ðông chết. Ðêm 6-10-1976, Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh và Uông Ðông Hưng… ra lệnh cho đơn vị đặc nhiệm tại Bắc Kinh 2341, bất thần tấn công, bắt trọn ổ Tứ Nhân Bang gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diệu Văn Nguyên…rồi tôn Ðặng Tiểu Bình lên ngôi hoàng đế đỏ, dù Hoa Quốc Phong vẫn là Tổng Bí Thư đảng bù nhìn.
Ðặng công khai ủng hộ Polpot, bất chấp dư luận thế giới đang nguyền rủa tên sát nhân và khmer đỏ. Từ đó qua chỗ dựa chắc chắn, Polpot theo hẳn Trung Cộng, cắt đứt liên hệ với VC. Về nước, Polpot ra lệnh hạ sát hơn 10.000 đảng viên, tại Trung tâm thẩm vấn Tuol Sleng ở Nam Vang, vì họ bị nghi là thân với Hà Nội. Máu của đồng bào hai nước tiếp tục chảy hằng ngày, trong lúc hai cái loa của hai đảng, vẫn không ngớt ca tụng, tuyên truyền tình hữu nghi thắm thiết, một cách trơ trẽn và lố bịch, khiến cho ai nghe cũng muốn lợm giọng.
Cuối tháng 3-1977, sau khi đã thanh trừng hết tay chân của Hà Nội, Polpot ban hành nghị quyết 870, công khai chống VN, ra lệnh tàn sát Việt kiều tại đất Miên, đồng thời tấn công các tỉnh biên giới.
Ngày 30-4-1977, trong lúc Bắc Bộ Phủ từ trên xuống dưới, đang mở đại tiệc ăn mừng chiến thắng cướp được VNCH, thì từ Hà Tiên, Châu Ðốc, An Giang, Ðồng Tháp lên tới Tây Ninh.. hằng chục sư đoàn Khmer đỏ, vượt biên giới tấn công vào các làng xã của VN. Giống như quan thầy Trung Cộng, lính Miên đỏ hung dữ dã man chưa từng thấy, qua hành động giết người rồi chặt đầu, mổ bụng, phanh thây và cắt bỏ các cơ quan sinh dục của nạn nhân. Sau đó đốt sạch nhà cửa và bắt hết trâu bò, heo ngựa của người Việt đem về Căm Bốt. Do sợ Trung Cộng, nên Hà Nội vẫn im lặng nhưng khắp nước đồng bào đều lên tiếng phản đối, cả tờ báo Quân Ðội Nhân Dân cũng lên tiếng đòi chính phủ trả đũa. Do trên, Bắc Bộ Phủ đã ra lệnh cho A37 oanh tạc, rượt đuổi quân Miên chạy về bên kia biên giới.
Tháng 8-1977, tờ Cờ Ðỏ của Polpot (Democratic Kampuchia Advance), cho phát hành một bản đồ nước Căm Bốt mới, không theo đường ranh Bravie cũ. Bản đồ này, ngoài lãnh thổ nước Kampuchia hiện hữu, còn bao gồm tất cả các hải đảo của VN và Nam Phần, mà Polpot gọi là Thuỷ Chân Lạp. Cùng lúc vào tháng 2-1992, quốc hội Trung Cộng cũng đã ban hành phổ biến một bản đồ của nước Tàu mới, trong đó hải phận Trung Hoa chạy dọc suốt bờ biển VN, Thái Lan, Mã Lai Á, Nam Dương, Brunei và Philippine. Như muốn đổ dầu vào lò lửa đang ngùn ngụt cháy, Ðặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phòng.. và đảng cọng sản Tàu, công khai cổ võ hành động Polpot chống lại VN.
Trước nổi cô đơn thê thiết vì bị Mỹ ngoảnh mặt, Tàu bỏ rơi, thế giới lợm giọng, đàn em Polpot phản bội và dân chúng miền Nam ù lì thụ động bất hợp tác. Vì vậy với bản chất lật lọng, quen chịu làm đầy tớ bất cứ ai nếu có lợi cho đảng và cá nhân. Nên VC lại chạy sang quì lạy Liên Xô, chịu gia nhập khối kinh tế Comecon và trên hết cho hải quân Nga vào các hải cảng Ðà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu. Ngày 6-6-1977, một phái đoàn quân sự Nga tới thăm Hà Nội. Tháng 10-1977, VC cho chở một số lớn chiến lợi phẩm tịch thu của VNCH từ tháng 4-1975 gồm phi cơ, chiến xa, đại pháo.. sang bán cho Ethiopie, một quốc gia Bắc Phi, nói là để lấy tiền trả nợ cho Trung Cộng.
Cũng từ đó, VC công khai làm chư hầu Liên Xô, nên được đàn anh viện trợ cho một số quân dụng cũ, gồm 2 tàu ngầm, một khu trục hạm, 4 phi đội MIG 21 cùng với đoàn cố vấn Nga đông đảo. Như vậy thế chân vạc của cọng đảng trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ III đã thành hình. Một bên gồm Liên Xô-VC-Lào cộng. Phe kia có Trung cộng và Khmer đó. Người Mỹ đứng giữa đâm thọc cả hai phía, để giật dây cũng như đổ thêm dầu vào đám cháy đang rực lửa. Ðó cũng là lối trả thù quý phái của bọn tư bản nhà giàu, trong canh bạc bịp, được coi như lớn nhất thế kỷ XX.
Ngày 24-9-1977, Khmer đỏ lại vượt biên tấn công Tây Ninh, phanh thây xé xác hằng trăm đồng bào vô tội. Lần này Bắc Bộ Phủ lột chức Trần Văn Trà, cho Lê Ðức Anh thay thế. Một ký giả Hung Gia Lợi tên Sandor Giory đã tới tận hiện trường quay phim, chụp hình nhưng bị công an tịch thu phim máy. Ðã vậy, 4 ngày sau cuộc tấn công đẫm máu tại Tây Ninh, Hà Nội vẫn gủi điện văn tới chúc mừng Polpot, trong dịp lễ ăn mừng 20 năm thành lập đảng Miên Cộng.
Rồi thời cơ chín mùi qua sự hứa hẹn của LX sẽ ra mặt can thiệp nếu Trung Cộng tấn công VN. Ðể lấy lòng tin thằng đầy tớ mới, LX cho hằng chục sư đoàn trải dài khắp biên giới Nga-Hoa và phái một mẫu hạm thường trực tuần thám trong hải phận vịnh Bắc Việt. Cũng từ đó, Hà Nội mới bắt đầu trả đũa, tung quân chiếm lại các làng mạc bị Khmer đỏ cưởng chiếm. Quân VN còn thọc sâu vào lãnh thổ tỉnh Svay Riêng, để giải thoát cho các tướng lãnh Miên đang bị Polpot thanh trừng đuổi giết, như Hunsen, Heng Samrin, Bonthang.. đem về VN. Sau đó VC cho diễn lại vở tuồng củ năm 1960 ở miền Nam VN, dùng các quân bài trên, để thành lập cái gọi là ‘ Mặt Trận Giải Phóng Căm Bốt ‘.
Ngày 5-10-1977, Trung Cộng và Polpot chính thức ký một ‘ Nghị định thư ‘ (Protocol), để bổ túc cho Hiệp định quân sự, mà hai bên đã ký ngày 1-2-1976. Theo đó, Trung Cộng sẽ viện trợ quân sự cho Khmer đỏ vô điều kiện không hoàn trả. Ngày 1-11-1977, Trung Cộng cắt đứt đường bay Bắc Kinh-Hà Nội. Ngày 21-11-1977, Tổng bí thư Lê Duân sang chầu thiên triều xin tạ tội nhưng bị Ðặng Tiểu Bình xua đuổi. Thế là đảng VC quyết định theo hẳn Nga Sô chống Tàu Cộng từ đó, tuy nhiên trước khi sang Mạc Tư Khoa ký kết, Võ Nguyên Giáp được lệnh bí mật bay tới Tân Ðề Ly nhờ giúp đỡ. Nhưng thời thế đã đổi thay, vì lúc đó Ấn Ðộ theo Tây Phương, không trung lập thân cộng, nên đã từ chối lập tức. Thế là lò lửa chiến tranh giữa ba đảng anh em Tàu-Việt-Miên, đã chính thức bùng cháy, không ai có thể dập tắt được.
Sau khi đi Tàu cầu hòa lần chót bị thất bại nên phải chạy theo Nga, vì vậy Lê Duẩn quyết định tấn công trả đũa Polpot. Ngày 2-12-1977, quân đoàn 4 hay Binh đoàn Cửu Long, gồm các SD chính quy 7,9,341 có không quân, thiết giáp, pháo binh yểm trợ, do Hoàng Cầm chỉ huy, với quân số trên 60.000 người, cộng thêm nhiêu Thanh Niên Xung Phong lo phần tiếp vận, công binh.. đồng loạt tấn công tai chiếm phần đất Tây Ninh bị chiếm, rồi tràn vào đất Miên tiêu diệt Quân Khu Ðông của Khmer đỏ. Vì lúc đó Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh, đang thăm khối ASEAN, nên quân VN được lệnh rút về nước ngày 6-1-1978. Lập tức Ðại sứ Kiều Minh và toàn bộ ngoại giao đoàn bị trục xuất khỏi Nam Vang. Ngoài ra Polpot cho triệu hồi đại sứ Sokheng từ Hà Nội về rồi giết chết. Cũng từ đó, đã có sự rạn nứt trong nội bộ, đưa tới sự thanh trừng, làm suy yếu quân đội.
Trong trận tấn công vừa qua, VN đã giải thoát và đem về nước hơn 60.000 nạn nhân bị Polpot cáp duồng gồm Việt-Hoa kiều và một số dân Miên. Tất cả được tạm trú tại các Trại Tị Nan mới lập ở Bến Sành (Tây Ninh) và Bến Tranh (Ðịnh Tường), do Liên Hiệp Quốc bảo trợ. VC nhân cơ hội vào trại tuyên truyền và tuyển mộ lính. Ngày 15-2-1978, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, từ Hà Nội vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia của VNCH ở Sài Gòn, để chủ tọa buổi ra mắt cái gọi là ‘Mặt Trận Kháng Chiến Khmer ‘.Những cán bộ Miên Cộng thân Hà Nội như Pensovan, Chensi, Heng Samrin, Tang Soroun và Chesoth đều được chỉ định làm cấp lãnh đạo. Tân binh Miên được VN huấn luyện cấp tốc tại các quân trường cũ của miền Nam như Chí Lăng, Vị Thanh và Long Giao.Ngày 22-4-1978, thành lập Lữ Ðoàn 1 Kháng Chiến Miên, rồi đưa về nước đánh Polpot. Trong lúc đó, quân Khmer đỏ lại tự tàn sát lẫn nhau tại các tỉnh miền đông như Kampong Chàm, Svay Rieng và Prey Veng. Lợi dụng sự chia rẽ trên, VC kêu gọi dân Miên nổi lên lật đổ Polpot.
Tháng 6-1978, Hà Nội lại oanh tạc Kampuchia. Tháng 9-1978, Phạm Văn Ðồng sang du thuyết giải độc tại 6 nước ASEAN nhưng bị thất bại. Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Cơ Thạch .. lại sang Liên Xô, để ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước trong vòng 25 năm. Theo đó Nga đã viện trợ quân sự, cũng như nhân đạo 1,5 triệu tấn mễ cốc cứu đói. Ngoài ra Nga còn cam kết sẽ can thiệp, nếu Trung Cộng xâm lăng VN. Cũng vì quá tin tưởng vào lời hứa cuối này, mà VC đã sử dụng gần 3/4 quân số khi tấn công Khmer đỏ, nên không đủ lực lượng phòng thủ biên giới phía bắc, khi Trung Cộng xâm lăng VN.
Ngày 2-12-1978, Lê Ðức Thọ, Ðồng văn Cống... đã đến chủ tọa ngày thành lập ‘ Mặt Trận Cứu Nguy Cam Bốt ‘, gọi tắt là KNUFNS, tại một khu rừng già trong tỉnh Kratie vừa chiếm được. Tại đây đã tập họp được một lực lượng đông đảo chống Polpot gồm tân binh, lính khmer đào ngũ và Heng Samrin được phong chức chủ tịch mặt trận. Rồi hằng ngày tiếng nói của những người Miên chống đối được phát thanh, đồng thời VC dùng máy bay rải truyền đơn chống Polpot, được rải khắp lãnh thổ Cambốt. Song song, lá cờ củ của Khmer Issarak năm 1950, với hình năm ngôi tháp vàng trên nền đỏ, được xài lại. Bộ chỉ huy tiền phương của VN đóng bên cạnh quân Miên, chuẩn bị tấn công quân Khmer đỏ của Polpot.
Ðể tiêu diệt Khmer đỏ qua thời gian kỷ lục, đặt dư luận thế giới trước sự đã rồi. Do trên Hà Nội đã mở cuộc hành quân thần tốc, sử dụng trên 200.000 quân sĩ của ba trong bốn quân đoàn chính quy và một lực lượng yểm trợ hải-không quân, hỏa tiễn và thiết giáp. Lê Dức Thọ vào thay Lê Trọng Tấn, giám sát chiến dịch, còn Lê Ðức Anh làm tổng tư lệnh chiến trường. Sư đoàn 2 và Trung đoàn chủ lực Tây Ninh khai pháo trước một ngày, khi Chu Huy Mậu tổng cục trưởng TCCT bắn phát súng lệnh mở màn chính thức cuộc tấn công Cam Bốt vào lúc 12 giờ khuya đêm giáng sinh 1978 tại Ban Mê Thuộc.
Theo kế hoạch, quân VN vượt biên giới tấn công Kampuchia bằng nhiều hướng, Ở phía bắc, quân khu V + quân đoàn 3 Tây Nguyên (gồm SD10,320,31), do Kim Tuấn chỉ huy, đánh chiếm tỉnh Stung Treng và toàn vùng đông bắc giáp với Lào. Cánh quân thứ hai của quân khu VII (gồm SD 303,302,5) +quân đoàn 3 với Lữ đoàn 12 thiết giáp, các trung đoàn tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, Long An.. từ hướng bắc Tây Ninh, Ql 7 và 13 tấn công chiếm Kompong Chàm và Kratié. Hướng tấn công chính cũng phát xuất tại Tây Ninh, do quân đoàn 4 phu trách (SD 2,7,9,341) + lữ đoàn 22 thiết giáp, lữ đoàn 24 pháo binh và lữ đoàn 25 công binh. Quân khu IX có quân đoàn 2 hay Binh đoàn Hương Giang tăng cường, tấn công từ An Giang, Hà Tiên. Tóm lại, ngoại trừ SD 306 được giữ lại để phòng thủ Lào, các SD 304, 325 cũng được điều động về nước tăng cường.
Cuộc chiến xảy ra thật đẫm máu và ác liệt, cộng thêm không quân và pháo binh ào ạt giội bom nã đạn, đánh bật 30.000 quân Khmer đỏ và nhiều cố vấn Trung Cộng, phải bỏ các tỉnh dọc biên giới Miên-Việt, tháo chạy về Nam Vang. Tại đây, bộ đội VC chiếm được nhiều quân dụng mới chưa sử dụng do Tàu viện trợ cho Cam Bốt như phi cơ, trong pháo.. Tuy nhiên VN cũng bị thiệt hại nặng, trên đường tiến quân về thủ dô, vì phục kích, mìn bay tại Fishhock, Kompong Cham và bến phà NeakLuong. Ðặc công VC cũng lén đột nhập vào Hoàng cung để giải thoát cho cựu hoàng Sihanouk nhưng Polpot đã cho di chuyển đượng sự tới Sisophon, nằm sát biên giới Miên-Thái.
Tính đến ngày 4-1-1979, VN làm chủ hoàn toàn các tỉnh miền đông của Cam Bốt. Ngày 6-1-1979, 7 SD của VN + 3 lữ đoàn Miên của Heng Samrin, qua phà trên sông Cửu Long, đồng loạt tấn công Phnom Penh. Thủ đô thất thủ sau một ngày kích chiến. Polpot cùng toàn bộ Khmer đỏ bỏ chạy tới tận TaSanh, sát biên giới Miên-Thái, để tiếp tục chống VC.
Tóm lại ngày 8-1-1979, đồng bào Cam Bốt coi như được giải thoát khỏi bàn tay sát nhân của Polpot và Khmer đỏ. Một Hội đồng cách mạng Kampuchia gồm 8 ủy viên được thành lập, do Heng Samrin làm chủ tịch. Ngày 14-1-1979, Ðặng Tiểu Bình, Hàn Niệm Long và nhiều uỷ viên cao cấp, trong Bộ Chính trị Trung Cộng, tới Thái Lan, tiếp xúc mật với thủ tướng Kriang Sok tại căn cứ Utapao. Sau đó, Thái cho Polpot và Khmer đỏ dung thân trên biên giới của hai nước. Qua sự yểm trợ và cưu mang hết mình của Tàu Cộng, Polpot lại tiếp tục đánh du kích với VC khắp nước Miên, cho tới đầu thập niên 90, qua áp lực của thế giới, cũng như sự sụp đổ của Liên Xô-Ðông Âu, VC mới chịu rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh nhưng thù hận giữa hai đảng cọng sản anh em tới nay, vẫn ầm ỹ, dù ngoài mặt Hun Sen luôn bợ Hà Nội.
3 - TÀU ÐỎ XÂM LĂNG VN :
Ai cũng biết quan hệ giữa hai đảng cong sản Việt-Trung, vô cùng gắn bó từ sau năm 1949 khi Mao Trạch Ðông chiếm được toàn cõi Hoa Lục. Từ đó, Trung Cộng hết lòng giúp đỡ VC mọi mặt, từ quân sự cho tới kinh tế, chính trị, ngoại giao. Nhờ vậy Hồ Chí Minh và đảng cọng sản mới chiếm được miền bắc vào năm 1954.
Trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975), hầu như nguồn viện trợ quân sự, kinh tế cho Bắc Việt xâm lăng VNCH, đều của Trung Cộng. Trên đất Bắc, Tàu giúp Hà Nội xây dựng nhiều công trình nhà máy, đường xá.. Theo tài liệu công bố, tính tới năm 1978, Tàu đã viện trợ cho VC hơn 20 tỷ mỷ kim. Từ năm 1965-1970, theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, đã có hơn 100.000 quân Trung Cộng sang giup1 Bắc Việt, để xây dựng và phòng thủ. Ðã có cả ngàn lính Tàu chết ở VN trong cuộc chiến
Sau 1970, nhiều biến chuyển lịch sử đã xảy ra, nhất là khi HCM chết, làm cho Hà Nội càng ngày càng ngả theo LX. Do nhu cầu cuộc chiến, VC cần có nhiều quân dụng tối tân như Mig21, tăng 54,55, hoả tiễn Sam.. để đối đầu với vũ khí Mỹ. Nhưng những thứ này chỉ có Nga mới có. Trung Cộng biết hết, nhưng vẫn tiếp tục giúp đỡ VC cho tới khi Hà Nội chiếm được miền Nam.
Rồi vì đầu óc thiển cận, các chóp bu trong Bắc Bộ Phủ tự coi như các đỉnh cao của loài người, coi thường mạng sống đồng bào cả nước, lại mù quáng chạy theo chủ thuyết cọng sản đã lỗi thời và nhất là tôn sùng Liên Xô hơn thần thánh. Từ đó, không cần cảnh giác về những kẻ thù xung quanh, lại mù quáng trở mặt và thách đó Trung Cộng. Ðó là nguyên nhân chính khiến kẻ thù có cớ xâm lăng VN vào năm 1979.
Tại miền Nam, ngày 24-3-1978 bắt đầu đánh tư bản. Hằng ngàn công an, bộ đội và nam nữ thanh niên xung phong đeo băng đỏ trên tay, rải khắp các đường phố Sài Gòn-Chợ Lớn, Gia Ðình, xông vào các hãng xường, nhà buôn, tư gia.. những người có máu mặt Hoa lẫn Việt, để lục lọi, vơ vết, xoi khám tịch thu tiền bạc, đô la, vàng ngọc, hàng hóa và tất cả tài sản riêng tư của dân chúng, những ai bị đảng kết tội là mại sản. Theo tài liệu được bật mí, chỉ riêng mẻ lưới trên, Hà Nội đã vơ vét của người giàu Sài Gòn, hơ
Ngày 3-5-1978, cả nước lại được đổi tiền lần thứ ba, khiến đồng bào trước sau trở thành vô sản chuyên chính. Ở miền bắc, hằng ngàn Hoa Kiều bị trục xuất về nước. Trong nam, hằng vạn người Hoa trắng tay, tiêu tan sản nghiệp, bì đầy ải lên vùng kinh tế mới tận Bình-Phước Long, Bình Tuy, Long Khánh, Bà Rịa.
Ðể trả đũa, Trung Cộng ngưng hẳn 72 công trình xây dựng viện trợ cho VN. Ðã có 70.000 người Hoa tại VN hồi hương về Hoa Lục. Ngày 16-5-1978, Trung Cộng tuyên bố gửi hai chiến hạm tới Hải Phòng và Sài Gòn, để đón hết Hoa kiều. Nhưng đây chỉ là đòn tuyên truyền chính trị, vì tàu chiến chỉ đậu ngoài khơi một ngày, rồi kéo neo về nước. Nắm được yếu điểm của đàn anh, VC lần chót hốt hết những gì còn sót lại của Hoa Kiều, qua chiến dịch ‘ xuất cảng người ‘.Sau đó tống khứ họ ra khơi, khiến cho hơn triệu người bị chết vì sóng gió và hải tặc Thái Lan trên biển Ðông, mà những trang Việt sử cận đại, gọi là cơn hồng thủy của thế kỷ.
Sau khi VN bỏ lỡ cơ hội nối lại bang gioa với Hoa Kỳ. Ngày 24-5-1978, phụ tá an ninh của tổng thống Mỹ Carter là Brezinski, tới Bắc Kinh ký một hiệp ước liên minh quân sự với Tàu. Từ đó Ðặng Tiểu Bình đã có chỗ dựa chống Nga, nên mới ra mặt quyết tâm xâm lăng VN để rửa thù phục hận.
Từ 28 tới 30-1-1979, Carter và Ðặng Tiểu Bình đã họp mật tại Tòa Bạch Ốc. Sau đó tổng thống Mỹ đồng ý để Trung Cộng trừng phạt VN và còn giúp cầm chân Nga, bằng cách chịu ký với LX hiệp ứơc SALT II. Ðể thêm kế nghi binh, Hoa Kỳ cử bộ trưởng tài chánh là Blumenthal tới công tác tại Bắc Kinh. Ngoài ra còn cho Hàng không mẫu hạm Constellation lảng vảng ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Tất cả mơ mơ màng màng, khiến cho LX cũng không biết đâu mà mò.
Ngày thứ bảy 17-2-1979, lúc 3 giờ 30 sáng, khi vạn vật, chim chóc và con người đang chuẩn bị cho một ngày sống mới, thì 600.000 quân Tàu, tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu, của VN chống xâm lăng Tàu.
Ðể tấn công VN, Trung Cộng đã huy động nhiều quân đoàn từ nhiều quân khu khác nhau, gồm QD 13,14 tấn công Lai Châu-Lào Kay. Hai QÐ 41,42 tân công Cao Bằng. Riêng mạn Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Ninh thi giao cho quân đoàn 43,54,55. Tất cả do Hứa Thế Hữu và Dương Ðắc Chí chỉ huy trong mấy ngày đầu.
Về phía VN, một phần vì sự tự cao bách thắng của các đỉnh cao tại bắc bộ phủ. Phần khác do quá tin tưởng sự liên minh quân sự với LX. Nên gần như sử dụng gần hết các đơn vị chính quy tại mặt trận Kampuchia. Bởi vậy ngay khi cuộc chiến bắt đầu, trong lúc quân Trung Cộng đông đảo lên tới 150.000 chính quy, thì việc phòng thủ miền bắc, nhất là thủ đô Hà Nội, được giao cho các Sư Ðoàn 308,312,390 của quân khu I. Nói chung, trong cuộc chiến đấu với Trung Cộng tại biến giới, chỉ có các sư đoàn chủ lực của quân khu tham dự như Sư đoàn 3,327, 337, Tây Sơn ( mặt trận Lạng Sơn). SD 567, B46, SD.Pháo binh 66 (mặt trận Cao Bằng). Các tuyến từ Hà Giang tới Lai Châu, do các SD316,345, Ðoàn B68, M63, các trung đoàn chủ lực tỉnh, huyện đội, công an biên phòng. Sau đó khi thấy tình hình quá nguy ngập, Hà Nội mới gấp rút điều động các trung đoàn từ các tỉnh trung châu, cùng với các sư đoàn chủ lực của quân khu II và IV từ Kampuchia về tiếp viện.
Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.
Sự thất bại trong những ngày đầu, khiến Ðặng giao chỉ huy mặt trận cho Dương Ðắc Chí, đồng thời cũng thay đổi chiến thuật, dùng tăng pháo mở đường và bộ binh tùng thiết. Do quân Tàu quá đông, nên sau 10 ngày cầm cự, bốn thị xã Lai Châu, Lào Kay, Hà Giang, Cao Bằng lần lượt bị thất thủ. Riêng tại thị xã Lạng Sơn, Trung Cộng tung vào chiến trường tới sáu sư đoàn chính quy 127,129, 160,161, 163,164 cùng hằng trăm thiết giáp và đại pháo từ khắp nới bắn vào yểm trợ. Phía VN có quân đoàn 14 gồm các SD 3, 327, 338, 347, 337 và 308. Trong lúc đó hai SD chính quy 304 và 325 từ Kampuchia, cũng đựợc không vận và di chuyển bằng xe lửa, tới Lạng Sơn tiếp viện. Nhưng cuối cùng Lạng Sơn cũng bị thất thủ đêm 4-3-1979. Sau đó giặc Tàu dùng mìn, bom phá nát hết các thành phố, thị xã tạm chiếm, kể cả hang Pắc Pó, suối Lê Nin và núi Các-Mác mà Hồ Chí Minh từng tạm trú, trước khi về Hà Nội cướp chính quyền vào tháng 9-1945. Ngày 16-3-1979, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh rút quân về nước.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975), gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong.
Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin tức, từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh Trung-Việt (SEcret Records of Sino-Vietnamese War) của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được “Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989)”. Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?) lãnh thổ cho giặc Tàu.
Núi Ðất (VN) hay Lão Sơn (Tàu), dù có gọi bằng cái tên gì chăng nữa, cũng vẫn là một ngọn núi của VN, tại xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong trận chiến đẳm máu này, hai bên đã dành giựt quyền kiểm soát cứ điểm 1509m, được coi như là một vị trí chiến lược rất quan trọng về phía VN, được cũng cố xây dựng từ sau cuộc chiến biên gới 1979.
Thế là ngày 28-4-1984, vào lúc 5 giờ 50 sáng, Trung đoàn 118, Sư đoàn 40 BB, thuộc Quân đoàn 14, Quân khu Côn Minh, tiền pháo hậu xung, đồng loạt tấn công đỉnh 1509 và các cứ điểm quan trọng khác của VN. Cuộc chiến thật gay go vì gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân phòng ngự VN, cấp đại đội. Tất cả đã tử chiến trước quân thù, đặc biệt trong số này có 4 nữ cán binh CSVN, thà chịu chết trước súng phun lửa của giặc Tàu, chứ không đầu hàng. Vì vậy nên trận chién kéo dài tới 15 giờ 30 chiều mới kết thúc, giặc bỏ xác tại chỗ 198 tên, cùng một số khác bị thương nặng..
Ngày 11-6-1984, một Tiểu đoàn CSVN tấn công tái chiếm núi nhưng bị đẩy lui. Ngày 12-7-1984, hai bên đụng độ lớn cấp Sừ đoàn. Phía CSVN đã huy động tới 6 Trung đoàn Bộ binh của các SÐ312, 313, 316 và 356 để tái chiếm đỉnh núi. Cuối cùng Trung đoàn 982 thuộc Sư đoàn 313 CSVN, đã tái chiếm được cứ điểm 1509, sau khi đã chịu tổn thất hơn 3,700 người. Nhưng sau đó không biết vì lý do gì, chóp bu Hà Nội đã ra lệnh bỏ ngõ cứ điểm trên cho quân Trung Cộng tới tái chiếm. Rồi lại giành giật từ 1984-1987 ở cấp Ðại đội, cho tới ngày 13-2-1991 thì châm dứt với kết quả : Trung Cộng hoàn toàn chiếm lĩnh Núi Ðất nằm trong lãnh thổ VN tại Tỉnh Hà Giang, và đổi lại tên Tàu là Lão Sơn.
Lịch sử lại tái diển, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân VN tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì quân trú phòng nhận được lệnh của đảng “không được đánh Tàu” nên chỉ phản ứng có lệ. Kết quả phía Trung Cộng, không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, bên VN có nhiều tàu chiến bị chìm, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ, 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong oan uổng.
Chỉ riêng năm 1999 và 2000, bọn chóp bu đảng gồm Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Minh Triết và nhất là Nguyễn Tấn Dũng cùng toàn lũ trong Chính trị Bộ, đã lén lút, ký kết 2 Hiệp Ước bất bình thường, vô lý, phản bội dân tộc, trong sự Bán Ðất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu
Tính ra, từ ngày Hồ Chí Minh và Ðảng CSQT chiếm được nữa nước VN, qua Hội Nghị Genève 1954, sau đó cưởng chiếm Miền Nam ngày 30-4-1975 và cai trị cả nước tới 2007, chỉ hơn nữa thế kỷ (1955-2009), đã bán cho nhượng Tàu hai quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa, nhiều đất đai tai biên giới Hoa Việt, trong đó có Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Ðất, bải Tục Lãm và nhiều vùng đánh cá thuộc lãnh hải của VN. Tất cả hành động bán nước trên đều mờ ám, bịp lừa, mục đích cũng chỉ để che dấu mọi tội lỗi, hầu tiếp tục kéo dài sự thống trị của tập đoàn thực dân đỏ tham nhũng, bất tài nhưng trong tay nắm đủ quyền lực, tiền bạc và trên hết đã sai khiến được một thiểu số trí thức khoa bảng mù quáng hám danh, đang cố sức quậy bùn công cuộc chiến đấu quang phục đất nước của Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại và Ðồng bào quốc nội.
Tóm lại, sau khi cưởng chiếm đuợc cả nước VN, CSQT bỏ Tàu theo Nga, gây nên một cuộc chiến long trời lở đất với Miên và Trung Cộng. Bài học của lịch sử chưa khô máu trên thân thể mẹ VN nhược tiểu, thì một cuộc chiến đẳm máu khác đã thấy ló dạng, mà bất cứ ai cũng thấy rõ hành động của Ðảng CSVN, từ đầu năm 2009 tới nay qua cái gọi là chủ trương lớn của đảng “rước giặc Tàu vào dầy mã Tổ Hồng Lạc bằng trò hề KHAI THÁC BAUXIT” tại Cao Nguyên.
Lần này là cuộc chiến sinh tử giữa toàn dân VN trong và ngoài nước, với sự tham gia của mọi thành phần xã hội, tuổi tác, trí thức cũng như người bình dân. Tất cả đều đã đứng lên, quyết tâm tiêu diệt cái chế độ độc tài đảng trị “bán nước hại dân”, để toàn dân tự mình chống lại và đánh đuổi giặc Tàu ra khỏi bờ cỏi VN, dành lại đất đai biển đảo mà VC đã bán cho kẻ thù suốt thời giam cầm quyền.
VN không bao giờ sợ Tàu phù từ ngàn năm về trước, vì thời đó không có những tên việt gian bán nước, không có những kẻ đôi lốt tu hành buôn Phật bán Trời, không có những tên gian thương bất nghĩa vô loại làm gián điệp cho giặc và trên hết là sự “Ðồng Tâm Quyết Chiến” của Quân-Dân cả nước trong sứ mệnh chống lại xâm lăng, mà điển hình là “Hội Nghị Diên Hồng” Ðời Nhà Trần mãi mãi lưu danh thiên cổ.
VN ngày nay cũng vậy, trong nước gần hết đồng bào đã đứng dậy chống ngụy quyền qua đủ mọi hình thức, bất chấp sinh mệnh, tù đầy. Cao cả hơn hết là sự dấn thân của thành phần trí thức và giới trẻ. Ở Hải ngoại, có thể nói được là hàng hàng lớp lớp người Việt tị nạn CS nay cũng đã đứng dậy “chống giặc cưứ nước”. Chúng ta cả nước đã quyết tâm chung lòng “Hy Sinh Vì Ðại Nghĩa Dân Tộc “ chẳng lẽ đứng yên nhìn đất Việt, Dân Việt dần mòn trở thành Nô Lệ cho đế quốc Tàu đỏ hay sao ? .
Hết đường chối cãi rồi nheTừ đây chấm dứt lè nhè ‘ bác - con ‘Dù cho sông cạn núi mònHồ-Ðồng bán nước vẫn còn trơ trơGây nên máu chảy đôi bờ ?Ðánh Tây chống Mỹ đâu ngờ Việt gianCả bè cỏng giặc Tàu sangDâng đất bán đảo trăm ngàn hận đauChỉ lo hãm hại đồng bàoGiết người cướp của để mau làm giàuNay lại im hết được sao ?Mười bốn tháng chín vết dao đoạn lìa
Ðem thân của Mẹ cắt chiaHoàng-Trường hai đảo bên rìa biển ÐôngGiang sơn gấm vóc Lạc HồngMáu xương của Việt chất chồng tạo nênBây giờ là lúc đứng lênToàn dân cả nước đáp đền núi sôngXóa tan vết nhục Hồ-ÐồngDựng lại huyền thoại con rồng cháu tiên
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
MƯỜNG GIANG