Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2010













GIÁNG SINH VUI VẺ - CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Trong tâm tình hân hoan mừng đón Chúa Giêsu Hài Đồng
giáng trần trong đêm Cực Thánh Giáng Sinh,

Trang Nhà TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN CHO QUÊ
HƯƠNG VIỆT NAM trân trọng kính chúc :

- Đồng Bào quốc nội,
- Cộng Đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng phỉ trên
khắp thế giới,
Vui hưởng một mùa Giáng Sinh An Bình, Hạnh Phúc,
một năm mới 2010 dồi dào Sức Khỏe, An khang, Thịnh
Đạt, cùng nhau đoàn kết hạ quyết tâm tiêu diệt xóa
sổ chế độ cộng nô độc tài gian ác, đồng thời giành
lại biển, đảo, đất đai... đang bị giặc phương bắc chiếm
đoạt và đặt ách thống trị.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban Ơn Lành cho
Quê Hương Việt Nam thân yêu.
JESSICA DIEM PHAN

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

ĐIỂM DANH CÁC ĐẠI GIA ĐỎ VIỆT NAM


Điểm danh các Đại Gia đỏ Việt Nam

TIỀN Ở ĐÂU RA MÀ NHIỀU THẾ NÀY HỞ TRỜI ???
Trời trả lời : Ở MÁU XƯƠNG NHÂNDÂN và ngoạiviện
CHỚ Ở ĐÂU ???

Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sản có tài sản từ vài trăm triệu Mỹ kim đến trên vài TỶ ĐÔ-LA!
Còn gì là tài-sản Quốc-gia nữa ???

Phan Văn Khải và con trai trên 2 tỷ USD
-Nguyễn Thị Xuân Mỹ : Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Kiểm Soát 417 triệu USD
-Thích Trí Tịnh : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, TW GHP 250 triệu USD
-Lê Đức Anh : Cựu Chủ tịch nhà nước CSVN 2 tỷ 215 triệu USD
-Trần Đức Lương : Chủ tịch nhà nước 2 tỷ 100 triệu USD
-Đỗ Mười : Cựu Tổng Bí Thư CSVN 1 tỷ 90 triệu USD
-Nguyễn Tiến Dũng : Đệ nhát Phó Thủ Tướng 1 tỷ 780 triệu USD
-Nguyễn Văn An : Chủ tịch Ban Chấp Hành Trương Đảng CSVN 1 tỷ 70 triệu USD
-Lê Khả Phiêu: Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 430 triệu USD
-Nguyễn Mạnh Cầm : Phó Thủ Tướng 1 tỷ 350 triệu USD
-Võ Văn Kiệt : Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 15 triệu USD
-Nông Đức Mạnh : Chủ Tịch Quốc Hội 1 tỷ 143 triệu USD
-Phạm Thế Duyệt : Uỷ viên Thường vụ Thường trực TW Đảng 1 tỷ 773 triệu USD
-Trần Ngọc Liễng : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 900 triệu USD
-Hoàng Xuân Sính : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 784 triệu USD
-Lý Ngọc Minh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 750 triệu USD
-Nguyễn Đình Ngộ : Chủ tịch UBMTTQ 656 triệu USD
-Võ Thị Thắng : Phó Chủ tịch Trung ương HLHPN 654 triệu USD
-Ma Ha Thông : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 590 triệu USD
-Nguyễn Đức Triều : Chủ tịch TW Hội Nông dân VN 590 triệu USD
-Trần Văn Quang : Chủ tịch Hội Cựu chiến binh VN 587 triệu USD
-Nguyễn Đức Bình : Giám Đốc Viện Quốc Gia TPHCM 540 triệu USD
-Vương Đình Ái : Phó Chủ tịch Uỷ ban ĐKCĐVN 512 triệu USD
- Hoàng Thái : Thường trực Đoàn Chủ tịch 500 triệu USD
-Nguyễn Thị Nữ : Chủ tịch UBTW MTTQVN 500 triệu USD
-Nguyễn Tiến Võ : Uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
-Nguyễn Văn Huyền : Nhân sĩ thành phố HCM 469 triệu USD
- Nguyễn Xuân Oánh : Kinh tế Thành phố HCM 469 triệu USD
-Phạm Thị Trân Châu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 469 triệu USD
-Thích Thiện Duyên : Giáo hội Phật giáo QN ĐN 469 triệu USD
-YA Đúc : uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
-Hà Học Trạc : Chủ tịch UBTW MTTQVN 400 triệu USD
-Hoàng Quang Đạo : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 390 triệu USD
-Lê Hai : Tổng cục chính trị QĐNDVN 390 triệu USD
-Lê Truyền : Uỷ viên Ban Thường trực 390 triệu USD
- Lý Quý Dương : Dân Tộc Dao tỉnh Hà Giang 390 triệu USD
-Phạm văn Kiết : Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc 390 triệu USD
-Vương Đình Bích : Uỷ viên UBTW MTTQVN 390 triệu USD
-Trần Đông Phong : Thường trực UBTƯMTTQVN 387 triệu USD
- Trần Văn Đăng : Uỷ viên TƯ Đảng,Tổng Thư ký 364 triệu USD
-Hoàng Đình Cầu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
-Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
-Ngô Bá Thành : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
-Trương Thị Mai : Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam 300 triệu USD
-Hồ Đức Việt : Bí Thư thứ nhất TW Đoàn TNCS 287 triệu USD
-Lâm Công Định : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
-Ngô Gia Hy : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
-Trần Văn Chương : Chủ tịch Hội người Viẹt Nam 287 triệu USD
-Trương Văn Thọ : Bác sỹ, dân tộc Chăm 287 triệu USD
-Đỗ Duy Thường : Vụ Trưởng vụ Dân chủ pháp luật 280 triệu USD
-Đỗ Tấn Sỹ : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 280 triệu USD
-Lê Văn Triết : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
-Lương Tấn Thành : Giáo Sư Bệnh viện Bạch Mai 280 triệu USD
-Nguyễn Phúc Tuần : Uỷ viên UBTW MTTQVN 280 triệu USD
-Phạm Thị Sơn : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
- Lê Bạch Lan : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 269 triệu USD
-Nguyễn Văn Vi : Uỷ viên UBMTTW 269 triệu USD
-Trần Thoại Duy Bảo : Uỷ viên UBTW MTTQVN 269 triệu USD
-Vũ Oanh Lão : thành cách mạng 269 triệu USD
-Nguyễn Thị Nguyệt : Cao đài Ban Chỉnh tỉnh Bến Tre 264 triệ USD
-Bùi Thái Kỷ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 257 triệu USD
-Hoàng Hồng : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 257 triệu USD
-Lưu Văn Đạt : Tổng Thư ký Hội Luật gia Việt Nam 257 triệu USD
-Nguyễn Công Danh : T P. Hồ Chí Minh 257 triệu USD
-Nguyễn Túc : Uỷ viên Ban Thường trực 257 triệu USD
-Nguyễn Văn Bích : Uỷ Ban Kế hoạch Nhà Nước 257 triệu USD
-Hoàng Việt Dũng : Giám đốc Công ty TNHH 256 triệu USD
-Phan Quang : Hội nhà báo Việt Nam , Uỷ viên UBMT 256 triệu USD
-Vưu Khải Thành : Tổng công ty hữu hạn BITIS 256 triệu USD
-Cao Xuân Phổ : Viện Đông Nam á 254 triệu USD
-Chu Văn Chuẩn : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 254 triệu USD
-Đăng Thị Lợi : Chủ tịch Hội Thân nhân Việt kiều 254 triệu USD
-Hoàng Văn Thượng : Đại tá, Anh hùng quân đội 254 triệu USD
-Lê Quang Đạo : Trung ương Mặt trận Tổ quốc N 254 triệu USD
-Lợi Hồng Sơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
-Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 254 triệu USD
-Ngô Ngọc Bỉnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
-Nguyễn Kha : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
-Nguyễn Văn Hạnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
- Nguyễn Văn Vĩnh : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
-Đinh Thuyên : Chủ tịch hội người mù Việt Nam 250 triệu USD
-Đoàn Thị ánh Tuyết : Thượng tá, Anh hùng quân đội 250 triệu USD
-Lê Thành : Phó Chủ tịch Thường trực 250 triệu USD
- Mùa A Sấu : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 250 triệu USD
-Trần Kim Thạch : Uỷ viên UBTW MTTQVN 250 triệu USD
-Lê Ngọc Quán : Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Phú 249 triệu USD
-Nguyễn Quang Tạo : Chủ tịch liên hiệp các hội hoà bình 249 triệu USD
-Nguyễn Văn Thạnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
-Thào A Tráng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
-Trần Khắc Minh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 229 triệu USD
-Lê Minh Hiền : Thường trực UBTƯMTTQVN 215 triệu USD
- Hà Thị Liên : Thường trực UBTƯMTTQVN 214 triệu USD
-Ama Bhiăng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Âuu Quang Cảnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
-Bế Viết Đẳng : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
-Đàm Trung Đồn : Đại học Tổng hợp Hà Nội 200 triệu USD
-Đặng Đình Tứ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Đặng Ngọc Bân : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Đinh Công Đoàn : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Đinh Gia Khánh : Viện Văn học dân gian 200 triệu USD
-Hà Phú An : Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Hoàng Đức Hỷ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Lâm Bá Châu : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 200 triệu USD
- Lê Văn Tiếu : Việt kiều tại CHLB Đức 200 triệu USD
-Lương Văn Hận : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Nguyễn Văn Tư : Chủ tịch Hội Công Thương 200 triệu USD
-Phùng Thị Hải : Giám đốc Công ty TNHH Thuỷ Sản 200 triệu USD
- Rơ Ô Cheo : Dân tôc Gia Lai tỉnh Gia Lai 200 triệu USD
-Sầm Nga Di : Dân tộc Thái, tỉnh Nghệ An 200 triệu USD
-Thích Đức Phương : Thừa Thiên Huế 200 triệu USD
-Thích nữ Ngoạt Liên : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
- Trần Hậu : TWMTTQVN Trưởng Ban Nghiên 200 triệu USD
-Triệu Thuỷ Tiên : Dân tộc Nùng 200 triệu USD
-Trương Nghiệp Vũ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
-Trương Quốc Mạo : Chủ tịch Hội nông dân 200 triệu USD
-Ung Ngọc Ky : Uỷ viên uỷ ban TWMTTQ 200 triệu USD
-Vũ Đình Bách : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
-Mong Văn Nghệ : Dân tộc Khơ mú tỉnh Nghệ An 197 triệu USD
-Đinh Xông : Dân tộc Hrê tỉnh Quãng Ngãi 190 triệu USD
-Lê Công Tâm : Phó Chủ tịch Thường trực 190 triệu USD
-Mấu Thị Bích Phanh : Dân tộc Raklây tỉnh Ninh Thuận 190 triệu USD
-Nguyễn Ngọc Minh : Uỷ viên UBMTTQ tỉnh Huế 190 triệu USD
-Phan Hữu Phục : Cao đài Tiên thiên 190 triệu USD
- Trần Thế Tục : Uỷ viên UBTW MTTQVN 190 triệu USD
-Hoàng Mạnh Bảo : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
-Nguyễn Thị Ngọc Trâm : Uỷ viên UBTW MTTQVN 187 triệu USD
-Phạm Hồng Sơn : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
- Phan Hữu Lập : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
-Thái Văn Năm : Phật giáo Hoà hảo 187 triệu USD
-Trần Văn Tấn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 187 triệu USD
-Vi Văn ỏm : Dân tộc Xi mun tỉnh Sơn La, 187 triệu USD
- Bùi Thị Lập : Uỷ viên UBTW MTTQVN 184 triệu USD
-Kpa Đài : Uỷ viên UBTW MTTQVN 184 triệu USD
-Lê Văn Hữu : Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Yên 184 triệu USD
-Nông Quốc Chấn : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 184 triệu USD
-Phạm Khiêm Ich : Viên Thông tin KHXH 184 triệu USD
-Phạm Thanh Ba : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 184 triệu USD
-Từ Tân Vũ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 184 triệu USD
-Viễn Phương : Nhà thơ Uỷ viên UBMTTQ 184 triệu USD
-Nguyễn Ngọc Thạch : Tổng Biên Tập Báo Đại Đoàn kết 180 triệu USD
- Trương Hán Minh : Người Hoa TP. Hồ Chí MInh 180 triệu USD
-Bùi Xướng : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 157 triệu USD
-Trần Đình Phùng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt 157 triệu USD
-Hồ Ngọc Nhuận : Uỷ viên UBTW MTTQVN 156 triệu USD
- Phan Huy Lê : Uỷ viên UBTW MTTQVN 156 triệu USD
-Nguyễn Thống : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 154 triệu USD
-Trần Minh Sơn : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 154 triệu USD
-Vũ Duy Thái : Giám đốc xí nghiệp trách nhiệm hữu hạn 154 triệu USD-
- Chu Phạm Ngọc Sơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
-Đỗ Hoàng Thiệu : Đà Nẵng Ngân Hàng tỉnh QN ĐN 150 triệu USD
-Dương Nhơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
-Huỳnh Cương : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
- Mai Thế Nguyên : Kiến trúc sư trưởng tại Na Uy 150 triệu USD
-Ngô Minh Thưởng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 150 triệu USD
-Nguyễn Ngọc Sương : Đại học Tổng hợp Thành phố 150 triệu USD
-Nguyễn Văn Diệu : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 150 triệu USD
-Phạm Ngọc Hùng : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
-Thượng thơ Thanh : HT Cao đài Toà Thánh Tây Ninh 150 triệu USD
-Trần Đức Tăng : Phối sư Hội thánh Cđ Minh Chơn đạo 150 triệu USD
-Trần Phước Đường : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
-Lê Đắc Thuận : Giám đốc điều hành Cty VANOCO 107 triệu USD
-Nguyễn Đức Thành : Chủ tịch Ban điều hành CLB 107 triệu USD
-Trần Mạnh Sang : Uỷ viên UBTW MTTQVN 107 triệu USD
-Amí Luộc : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Bùi Thị Lạng : Thành phố Hồ Chí Minh. 100 triệu USD
-Danh Nhưỡng Dân tộc Khơ me 100 triệu USD
-Đào Văn Tý : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Đồng Văn Chè : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
-Hà Den : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
- Hồ Phi Phục : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
-Hoàng Kim Phúc : Tổng Hội trưởng Hội Thánh tin lành 100 triệu USD
-Kim Cương Tử : UBTW MTTQV 100 triệu USD
-Lê Ca Vinh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Lý Lý Phà : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Nguyễn Hữu Hạnh : Nhân sỹ Thành phố 100 triệu USD
-Nguyễn Lân : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 100 triệu USD
-Nguyễn Lân Dũng : Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 100 triệu USD
-Nguyễn Minh Biện : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
-Nguyễn Phước Đại : Luật sư TP. Hồ Chí Minh 100 triệu USD
-Nguyễn Tấn Đạt : Phật giáo Hoà hảo tỉnh An Giang 100 triệu USD
-Nguyễn Thành Vĩnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Nguyễn Thị Liên : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
-Nguyễn Thiên Tích : Chủ tịch hội y học cổ truyền VN 100 triệu USD
-Nông Thái Nghiệp :Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
-Phùng Thị Nhạn : Nghệ sỹ nhân dân Thành phố HCM 100 triệu USD
-Sùng Đại Dùng : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
-Trương Quang Đạt : Dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phú 100 triệu USD
-Tương Lai : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
-Vũ Mạnh Kha : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Hà Nội 100 triệu USD
-Hà Thái Bình : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 56 triệu USD
-Nguyễn Văn Đệ : Thượng tá, kỹ sư thuộc Bộ Quốc Phòng 56 triệu USD
-Trần Bá Hoành : Uỷ viên UBTW MTTQVN 56 triệu USD
-Võ Đình Cường : Uỷ viên UBTQ MTTQVN 56 triệu USD
-Cù Huy Cận : Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật VN 50 triệu USD
-Lê Khắc Bình : Chủ tịch, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 50 triệu USD
-Huỳnh Thanh Phương : ủy Quân sự thành phố Cần Thơ 32 triệu USD
-Hồ Xuân Long : Dân tộc Vân kiều, Quãng Trị 15 triệu USD
-Một tài liệu cũ trong báo Quốc gia, Montreal, Canada từ tháng 2/1996 trích tin Nữu Ước cho biết : " Một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch Việt - Mỹ tiết lộ đảng CSVN được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới vào năm 1995 với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla…
VN hiện nay có khoảng từ 80 đến 100 người có tài sản trên 300 triệu đô la, tất cả các tỉ phú này đều là cán bộ cao cấp của đảng.
"Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các bộ trưởng và thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty.
Theo ông J Shapiro, do việc chính phủ cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên đến 500000 đô la, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi. "Vẫn theo ông Shapiro, có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la. Đây là con số do một nhân vật cao cấp của ngân hàng trung ương cung cấp cho ông.
Những đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la khoảng 2000 người…
Tất cả những con số về tài sản của đảng CSVN là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch quốc tế. Số tài sản lớn lao trên do thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cũng nêu lên nhiều thí dụ điển hình như vợ bé của tổng cục phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc tổng cục kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston.
Trong niên khóa 94-95, hàng trăm du học sinh là con cái đảng viên tự túc. Niên khóa 95-96, con số này tăng lên gấp 3…" Một tài liệu khác trong website mà tôi tạm dịch là mạng điểm ( cf. địa điểm, thời điểm) Hận Nam Quan tháng 5/2002 tựa là " Giai cấp mới trong các chế độ CS " cho biết :"Theo tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà nội ngày 4 tháng 3 năm 2002 thì ĐCSVN sau khóa họp TƯ Đảng từ 18-2-đến 2-3-2002 đã chính thức ban hành một chính sách mới về kinh tế rất táo bạo: Đảng viên CS được phép làm kinh doanh tư nhân.
Phạm Chi Lan, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và kỹ nghệ tuyên bố với phóng viên của hãng thông tấn Reuter rằng:"… Đại hội đã quyết định là các đảng viên đang quản trị các xí nghiệp tư nhân có quyền ở lại trong Đảng". "Thật ra thì từ nhiều năm nay, các đảng viên cao cấp tuy không chính thức sở hữu một xí nghiệp tư nào cả nhưng thân nhân bà con của họ đã là chủ nhân của những xí nghiệp tư lớn nhất trong nước.
"Cứ hỏi vợ con các ông Phan văn Khải, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng…là sẽ biết ai là chủ nhân của các sân golf, các khách sạn hạng sang, hãng xe taxi, hãng hàng không, nhà máy chế biến hải sản, hãng xuất nhập cảng, siêu thị lớn nhất nước. "Ai mà không thấy sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo CS tại VN. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đô la tiền mặt...
Giới tư bản đỏ nhờ phù phép XHCN đã biến tài sản của quốc gia thành tư sản một cách thần tình, biển thủ công quỹ, buôn lậu hàng quốc cấm thế mà cứ hò hét diệt tham nhũng đến cùng.
"Theo tài liệu FYI ( Poliburos network) ngày 19/12/2000 thì các cán bộ và nhân viên cao cấp của nhà nước CS Hà nội hiện làm chủ những số tiền to lớn gửi tại các ngân hàng ngoại quốc cộng với những bất động sản tọa lạc trong nước :

- Lê Khả Phiêu : cựu tổng bí thư ĐCSVN và gia đình có 5 khách sạn (2 ở Hànội và 3 ở Saigon), tài sản và tiền mặt trị giá 1 tỉ 170 triệu Mỹ kim (US$ 1.170.000.000)
- Trần Đức Lương: Chủ tịch nước CHXHCNVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 137 triệu MK
- Phan Văn Khải: Thủ tướng chính phủ, gia đình có 6 khách sạn ở Saigon, tài sản 1 tỉ 200 triệu MK.
- Nguyễn Tấn Dũng: Đệ 1 Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 480 triệu MK
- Nguyễn Mạnh Cầm: Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 150 triệu MK - Phạm Thế Duyệt: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, tài sản 1 tỉ 173 triệu MK
- Tướng Phạm Văn Trà : Bộ trưởng Quốc Phòng, tài sản gồm có 10 tấn vàng và tiền mặt 1 tỉ 360 triệu MK.
- Trương tấn Sang: Chủ tịch Ủy ban Kinh tế TƯ Đảng CSVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 124 triệu MK.

Ngoài ra, còn một số cán bộ và công chức có 1 tỉ và trên 100 triệu MK trong danh sách liệt kê của bảng FYI này là hơn 20 người nữa.
Gần đây nhất, theo điện thư Câu lạc bộ dân chủ số 39 tháng 2/2005 trong mạng điểm Y kiến thì:

"Một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ mới đây từ một quan chức cao cấp Bộ Công an cho biết số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ.. Đáng chú ý là:
-Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng;
-Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD;
-Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng;
-Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD;
- Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD
- Đương kim Thủ tướng Phan văn Khải hơn 2 tỉ USD;
- Đương kim Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn tấn Dũng hơn 1 tỉ USD;
- Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD;
-Đương kim chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An hơn 1 tỉ USD;
-Cựu phó ủy ban thể dục thể thao Quốc gia Lương quốc Đống 500 triệu USD;
-Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm hơn 1 tỉ USD;
-Cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại Mai văn Dậu hơn 1 tỉ USD.
Ngoài ra, nguồn tin cũng cho biết một danh sách dài các quan chức có số tiền gửi hàng trăm triệu USD…" Tôi phải đưa ra 3 nguồn khác nhau để anh và các bạn trong nước thấy, báo chí trong nước nếu biết cũng không dám đăng vì toàn là "bí mật quốc gia", internet thì không phải ai cũng có để coi, lại bị tường lửa ngăn chặn hay bị theo dõi khi dùng máy điện toán công cộng.
Quan chức cao cấp của chế độ CSVN gởi tiền ở ngoại quốc Sunday, September 11, 2005 * CSVN ra luật chống rửa tiền nhưng ... GENEVA 11-9 (NV) - Một số cán bộ được tin cậy của đám quan chức cao cấp của chế độ Hà Nội đã được giao cho nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị các tài sản khổng lồ của họ có được nhờ tham nhũng hối lộ gửi tại các ngân hàng ngoại quốc. Một nhân vật (yêu cầu dấu tên) từng giao tiếp với một số người này ở một số ngân hàng Thụy Sĩ tiết lộ như vậy trong một cuộc tiếp xúc với báo Người Việt mới đây. "Chưa kể tại ngân hàng các nước khác ở Âu Châu và Á Châu, riêng tại Thụy Sĩ, tôi biết có hai người ở các ngân hàng thành phố Lausane và hai người ở thành phố Geneva, làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản do xếp của họ gửi." Nhân vật trên tiết lộ.
Lương bổng của đám quan chức cao cấp của đảng và nhà nước CSVN, theo sự mô tả của một viên chức ngoại giao Tây Phương thì "không đủ để họ sống 10 ngày", nhưng họ có tiền phải gửi, hay nói đúng hơn, giấu đút, ở các ngân hàng ngoại quốc là một điều hiển nhiên bất bình thường. Cho tới nay, lương căn bản của cán bộ đảng viên CSVN chỉ có 290,000 (tương đương khoảng $18 đô la) rồi nhân theo chỉ số cao thấp tùy chức vụ, cấp bậc.
Nhưng có lần Vũ Khoan, phó thủ tướng CSVN, khi thăm một xí nghiệp quốc doanh đã so sánh và thấy một viên chức nhà nước chức vụ rất cao như ông còn kém lương của một người thợ chuyên môn. Ðiều này cho thấy lương bổng cán bộ công chức CSVN, dù là quan chức cao cấp, cũng không là bao nhiêu và không đủ sống. Theo lời nhân vật trên tiết lộ, mỗi một số viên chức cao cấp của chế độ đều sử dụng một số thuộc cấp tín cẩn vào công việc chuyển ra ngoại quốc số tài sản khổng lồ mà họ vơ vét được qua các "phi vụ" tham nhũng hối lộ. Số tiền họ gửi mỗi lần khoảng bao nhiêu, cách bao lâu gửi một lần, các cán bộ có trách nhiệm chuyển đô la và vàng dưới nhiều hình thức khác nhau đến các ngân hàng ngoại quốc, không tiết lộ. Nhưng nếu đó không phải là các số tiền lớn bạc triệu đô la thì người ta không cần đến người chuyên trách "chuyển khoản" cũng như quản trị xuất nhập các số tiền này, ông nói. "Họ luôn luôn có trách nhiệm đi đi về về", ông tiết lộ tiếp. "Giữa không những Việt Nam và Châu Âu mà còn cả từ Việt Nam đến một số ngân hàng ở Á Châu cũng như cả Nga và Ðông Âu." Tại sao đám quan chức CSVN lại đem tiền gửi cả tại nước Nga là nước có hệ thống ngân hàng thuộc loại bấp bênh nhất trên thế giới? "Họ gửi tiền cả ở ngân hàng Nga vì tin tưởng nguyên tắc khôn ngoan này: Không bao giờ bỏ tất cả các quả trứng vào chung một giỏ." Ông giải thích rằng nếu một quả trứng chẳng may bị vỡ, có thể những quả trứng khác vỡ theo. Ðây là sự khôn ngoan chung của đám quan chức cao cấp của chế độ khi họ rải số tiền kiếm chác được ra nhiều nơi trên thế giới. Theo ông, có rất nhiều người khác nhau làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản của "xếp" ở ngoại quốc. Nhưng cũng có những người là vợ, con, hay thân quyến của đám cán bộ đảng viên tham nhũng đóng vai trò giấu đút tiền tham nhũng hối lộ khi họ đi ra ngoại quốc.
Tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn viết một bài có tính cách "mách bảo" cho cán bộ đảng viên tham nhũng trong nước cách thức gửi tiền ở hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ với tựa đề "Gửi tiền ở nhà băng Thụy Sĩ". Bài báo này được báo điện tử VNExpress lấy lại và phổ biến ngày Thứ Bảy 10-9-2005 mở đầu với câu hỏi "Có thể mở tài khoản ẩn danh - anonymous account - ở ngân hàng Thụy Sĩ không?" Bài báo này giải thích khá tỉ mỉ về thế nào là tài khoản ẩn danh dưới hình thức "tài khoản mang số nào đó thay vì mang tên khách hàng." Và "tài khoản số hạn chế sự hiểu biết về chủ nhân của nó..." Bài báo phục vụ loại độc giả nào, khách hàng ngân hàng nào ở trong nước, người ta có thể hình dung ra ngay khi mà lợi tức trung bình đầu người chỉ có khoảng $500 đô la một năm.
Ngày 8-6-2005, CSVN theo áp lực của Hoa Kỳ khi lôi kéo Hà Nội hợp tác đối phó với khủng bố, rửa tiền ma túy, buôn lậu trên thế giới, ra nghị định số 74/CP để chống rửa tiền. Nghị định này buộc "Các ngân hàng, các định chế tài chính phải báo cáo về các giao dịch trong một ngày của một cá nhân hay một tổ chức có tổng trị giá từ 200 triệu đồng (khoảng $12,400 đô la) trở lên." Theo sự tường thuật trên báo Tuổi Trẻ ngày 9-6-2005. Tờ báo này kể tiếp rằng: "Tuy nhiên, các qui định có tác động lớn nhất là các ngân hàng buộc phải báo cáo về những khách hàng có lượng tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng từ 500 triệu đồng (khoảng $31,000 đô la) trở lên tại một ngân hàng. Lượng tiền 500 triệu đồng là tổng các khoản tiền gửi của cá nhân đó chứ không phải là một lần gửi tiết kiệm có trị giá 500 triệu đồng." Nhân vật trên kể cho hay, cách đây mấy năm, ông chánh văn phòng của Hội đồng Bộ Trưởng Chính phủ CSVN có lần đã thua bạc tại một casino ở Geneva "mấy trăm ngàn đô la trong một đêm". Ðiều này, số tiền tham nhũng hối lộ mà đám quan chức CSVN giấu đút ở ngoại quốc phải "vô cùng lớn."
Khóa họp Quốc hội CSVN hồi tháng Tư vừa qua, một dự thảo luật chống tham nhũng được bàn cãi nhưng rồi vẫn không có biểu quyết và được loan báo sẽ thảo luận trở lại vào khóa họp thứ hai của năm nay dự trù vào tháng 11 tới. Hàng năm, các khóa họp quốc hội Hà Nội đều có thảo luận chuyện chống tham nhũng và họ nhìn nhận tham nhũng đã trở thành "quốc nạn".
Nguyễn đình Lộc, đại biểu quốc hội và nguyên là Bộ trưởng Tư Pháp CSVN nói với báo chí trong nước rằng tham nhũng chỉ bị lộ diện khi "nội bộ tham nhũng" tố cáo lẫn nhau. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội, Phan văn Khải, thủ tướng Hà Nội, nhìn nhận tham nhũng đã "xà xẻo" khoảng 30% các dự án xây dựng, phát triển. Phần lớn các dự án này được tài trợ từ các khoản tín dụng ngoại quốc.. Các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết viện trợ, tài trợ cho các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo cho Việt Nam năm 2005 là $3.4 tỉ đô la. (NT)

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

THƯ TỐ CÁO NGUYỄN TẤN DŨNG THAM NHŨNG - GIÀU NHẤT CHÂU Á




Một đảng CSVN mang tên Phan Văn Trung vừa gửi thư cho các quan chức đảng và nhà nước gồm: Nông Đức Nạnh, Nguyễn Minh Triết Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Sang để tố cáo Nguyễn Tấn Dũng một tay tham lam, thủ đoạn đang kéo thân nhân, tay chân bè đảng để kinh tài theo kiểu mafia. Lá thư có đoạn nói rằng: Giở lại lịch sử Đảng ta có lúc thăng lúc trầm nhưng chúng ta chưa bao giờ sai lầm như bây giờ.
Chưa bao giờ chúng ta đã sai lầm như khi chọn Nguyễn Tấn Dũng đặt hắn vào nghế Thủ Tướng. Chúng ta chưa bao giờ có thủ tướng đầy tham vọng quyền lực và vật chất như hắn. Chưa đầy một năm kể từ khi hắn nắm quyền hắn đã làm gì được cho đất nước? Hay hắn chỉ dở mọi thủ đoạn để củng cố quyền lực nhằm tạo thêm vây cánh để thực hiện quyết tâm theo gót Enxin đưa VN từ Chủ nghĩa Cộng Sản sang Chủ nghĩa Tư bản. Nuyễn Tấn Dũng đã hình thành được một nhóm tư bản dưới trướng và tạo mọi điều kiện để nhóm này thâu tóm nền kinh tế VN từng bước thực hiện âm mưu dơ bẩn của hắn. Tài sản hắn có hiện nay đã đưa hắn trở thành người giầu nhất Châu Á.
Gia đình Nguyễn Tấn Dũng và gia đình vợ hắn đang thọc sâu vào tất cả hoạt động của nền kinh tế,dân gian muốn làm ăn đều phải sợ những tên: Tư Thắng, Liêm, Chính, Chí. Nguyễn Tấn Dũng còn liều lĩnh coi thường dư luận khi hắn cho con gái là Phượng thành lập Quỹ đầu tư Viet Capital, đây là hình thức rửa sạch dấu vết những dồng tiền bất minh của gia đình hắn. Nghị con trai của Nguyễn Tấn Dũng cũng có một cách ăn tiền hợp pháp là nhận thiết kế các công trình xây dựng lớn.
Dưới trướng Nguyễn Tấn Dũng hiện nay là cả một đường dây kinh tài hoạt động theo kiểu mafia mà chỉ nghe thấy tên là không ai dám đụng đến như Hội (Bitexco), Trầm Bê (Ngân hàng Phương Nam), Tiền (Ngân hàng An Bình), Bắc Hà (Ngân hàng Đầu Tư), Kiên (Ngân hàng Á Châu), Mừơi Rua (Ngân hàng Sài gòn) Hùng (Lilama), Ngọc Minh (Tổng công ty Hàng Không VN), Don Lâm (Vinacapital), Hùng (Savico), Gia Bình (FPT), chị Lâm (Ngân hàng Việt Nam Thương Tín, công ty Hoa Lâm), Diệu Hiền (công ty Bình An Cần Thơ), Nga (công ty Vinh Hạnh) (Vincom). Đây chỉ là những công ty bị lộ còn biết bao nhiêu công ty dưới trướng Nguyễn Tấn Dũng mà chúng ta chưa liệt kê được.
Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng đang có kế hoạch chi phối cổ phần các công ty lớn như Dầu khí, điện lực, khoáng sản, hàng không, ngân hàng. Nguyễn Tấn Dũng lớn tiếng kêu gọi chống tham nhũng nhưng tâm hắn có sáng không? Đức hắn có đáng trọng không? Tay hắn có sạch không?”…
Lá thư tố cáo còn kêu gọi các quan chức đảng và nhà nước nói trên “… nếu còn nghỉ đến Đảng, đến Dân. Các Đồng chí phải ngay lập tức đưa Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi nghế thủ tướng trước khi quá muộn. Nguyễn Tấn Dũng với bản chất tham lam, mưu mô thủ đoạn sẻ đưa VN đi chệch hướng của Đảng ta hắn sẻ đi ngựơc lại lợi ích của Đảng để trở thành một Enxin Việt Nam với khối tài sản khổng lồ. Nếu chần trừ sẽ có một gia đình Nguyễn Tấn Dũng hoặc là Enxin VN chi phối toàn bộ cả chính trị và kinh tế VN. Tài sản và quyền lực hắn có là máu xương của Đồng Chí, Đồng Đội ta, là mồ hôi nước mắt của Dân ta. Đảng còn hay mất? Câu trả lời là mất nếu Nguyễn Tấn Dũng còn tiếp tục là thủ tướng. Thời gian không còn nhiều, tôi hy vọng các Đồng chí sáng suốt loại bỏ Nguyễn Tấn Dũng ngay trước khi quá muộn”….

Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2009

NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI ÂU CHÂU VỀ NHÂN QUYỀN...




Nghị quyết ngày 26/11/2009 của Quốc hội Âu Châu về tình trạng tại Lào và Việt Nam
(Trích dịch phần liên quan đến Việt Nam)

Quốc hội Âu Châu,-
- Căn cứ vào Hội nghị thượng đỉnh khối ASEAN từ ngày 23 đến ngày 25/10/2009,
- Căn cứ vào việc bổ nhiệm Uỷ hội Nhân quyền Liên chính phủ khối ASEAN vào ngày 23/11/2009,
- Căn cứ vào Báo cáo Nhân quyền Thường niên năm 2008 của Liên hiệp Âu Châu,
- Căn cứ vào những cuộc thương thảo liên tục về Thoả thuận mới trong Quan hệ Ðối tác và Phối hợp giữa Liên hiệp Âu Châu và Việt Nam, và cuộc đàm phán về nhân quyền được tổ chức mỗi năm hai lần giữa Liên hiệp Âu Châu và nhà nước Việt Nam,
- Căn cứ vào các nghị quyết trước đây về Lào, nhất là những nghị quyết vào ngày 15/11/2001 về các vụ bắt bớ tuỳ tiện, đồng thời về tình trạng chính trị tại Lào(1) và vào ngày 1/12/2005 về tình trạng chính trị tại Campuchia, Lào và Việt Nam(2),
- Căn cứ vào bản Thoả thuận Hợp tác giữa Liên hiệp Âu Châu và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 1/12/1997, đặt căn bản trên sự "tôn trọng các nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền như đã được đề ra trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền",
- Căn cứ vào Ðiều 122(5) của bản Ðiều lệ Thủ tục của Liên hiệp Âu Châu,Việt Nam.
A. xét rằng nhà nước Việt Nam đã khước từ không chịu đáp ứng với nhiều khuyến nghị được đưa ra trong cuộc Thẩm nghị Định kỳ Phổ cập của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, tổ chức từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2009, với một quan điểm nhằm cải tiến tình trạng nhân quyền ở Viêt Nam,
B. xét rằng có hàng trăm người hiện đang bị giam giữ tại Việt Nam vì niềm tin tôn giáo hoặc quan điểm chính trị, bao gồm nhiều tín đồ Tin Lành người Thượng, một linh mục Công giáo, nhiều nhà truyền giáo Mennonite, nhiều tín đồ đạo Cao Ðài và Phật giáo Hoà Hảo,
C. xét rằng có hàng trăm tăng ni Phật tử trẻ tuổi thuộc Tu viện Bát Nhã đã bị tấn công và đánh đập một cách hung bạo vào ngày 27/9/2009, đồng thời tu viện của họ cũng bị đập phá, trong khi nhà cầm quyền và công an Việt Nam làm ngơ không quan tâm đến lời kêu cứu của họ; xét rằng có nhiều tu sĩ khác đến lánh thân tại Chùa Phước Huệ đã phải chịu đựng nhiều sự bạo hành thân xác và sách nhiễu của công an; xét rằng các tu sĩ hiện đang phải đối diện với nguy cơ bị nhà nước đuổi ra vì lý do họ đang ở trong Tu viện Bát Nhã mà không có giấy phép tạm trú hoặc không đăng ký trước,
D. xét rằng việc tấn công vào tu viện trên được nhiều người cho rằng là có liên quan đến bản kiến nghị 10 điểm nhằm cải thiện tự do tôn giáo mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đệ trình cho Chủ tịch Nguyễn Minh Triết vào năm 2007,
E. xét rằng tất cả các tổ chức tôn giáo muốn hoạt động phải được nhà cầm quyền cho phép và bị kiểm soát bởi các uỷ ban tôn giáo do nhà nước chỉ định, đồng thời xét rằng nhiều tổ chức tôn giáo bị cấm đoán và các tín đồ bị bách hại nếu họ tiếp tục muốn tồn tại một cách độc lập khỏi sự kiểm soát của chính quyền,
F. xét rằng các tất cả vị lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hầu như đều bị cầm tù, khởi đầu với vị Ðại lão Hòa thượng Thích Quảng Ðộ (81 tuổi), người nổi tiếng nhất trong các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam, đã bị giam giữ hơn 27 năm, hiện đang cư trú trong Thanh Minh Thiền Viện ở TPHCM,
G. xét rằng bà Trần Khải Thanh Thuỷ, một nhà văn Việt Nam đồng thời là một nhân vật hàng đầu trong phong trào dân chủ Việt Nam, đã bị bắt giữ trở lại sau khi vừa mãn hạn tù 9 tháng hồi năm 2007; xét rằng bà Thuỷ đang bị bịnh tiểu đường nghiêm trọng, nhưng dù thế nhà cầm quyền Việt Nam vẫn từ chối không chịu cho bà được tại ngoại hầu tra hoặc cho phép bà được nhận thuốc men điều trị,
H. xét rằng có nhiều tù nhân lương tâm, trong đó có linh mục Nguyễn Văn Lý, cô Lê Thị Công Nhân, và ông Nguyễn Bình Thành, tất cả đều bị kết án vì "tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam", đã bị khước từ không được chăm sóc y tế trong tù mặc dù tình trạng sức khoẻ của họ đòi hỏi phải được chữa trị ngay trong bịnh viện,
I. xét rằng khi thiếu vắng các tổ chức nhân quyền độc lập, thì các vị lãnh đạo tôn giáo thường giữ vai trò bảo vệ quyền làm người và tranh đấu cho sự tôn trọng con người được rộng rãi hơn và có thêm các nguyên tắc căn bản về dân chủ,
J. xét rằng Việt Nam, là nước sẽ đảm nhận chức vụ chủ tịch khối ASEAN vào năm 2010, nên làm gương bằng cách cải thiện tình trạng nhân quyền trong nước họ,
Xét rằng nhà nước Việt Nam có thể bắt đầu làm điều này bằng cách trả tự do cho hàng trăm người đã lên tiếng phê bình chính phủ một cách ôn hoà, các nhà hoạt động tôn giáo độc lập, các bloggers và các nhà tranh đấu dân chủ đang bị cầm tù vì các tội danh vô căn cứ làm hại đến an ninh quốc gia, vi phạm đến luật pháp quốc tế về quyền được bày tỏ chính kiến một cách ôn hoà......Việt Nam,
1. Thúc giục chính phủ Việt Nam phải ngưng ngay tất cả mọi hình thức đàn áp chống lại những người thực hiện quyền làm người của họ để tự do bày tỏ tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng và tự do hội họp, theo đúng các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế và Hiến pháp Việt Nam; kêu gọi chính phủ Việt Nam phải tuân theo các giao ước quốc tế, mà các giao ước này đòi hỏi sự thừa nhận tất cả các cộng đồng tôn giáo và quyền được tự do hành đạo, đồng thời hoàn trả lại những tài sản mà nhà nước Việt Nam đã tuỳ tiện tịch thu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Công giáo hoặc bất cứ tổ chức tôn giáo nào khác;
2. Lên án việc xua đuổi bằng bạo lực như tin tức đã loan, của hơn 150 tăng ni từ các tu viện và thực tế là tình trạng căng thẳng ngày càng gia tăng sau khi các hành động này của chính quyền nhằm chống lại cộng đồng Phật tử hiền hoà là một sự mâu thuẫn rõ ràng giữa những quyết tâm muốn tuân thủ theo những tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận về tự do tôn giáo, nhất là khi người dân đang cố gắng thực hiện quyền làm người của họ, mà chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã cam đoan tôn trọng khi làm một thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và sắp tới đây sẽ là chủ tịch khối ASEAN;
3. Yêu cầu Uỷ hội và Hội đồng Âu Châu, trong khuôn khổ của những cuộc thương thảo hiện thời về Thoả thuận mới trong Quan hệ Ðối tác và Phối hợp với Việt Nam, hãy bao gồm trong đó một điều khoản ràng buộc và rõ ràng về dân chủ nhân quyền, cùng với một cơ chế để thi hành điều khoản này, nhằm mục đích chấm dứt những vi phạm có hệ thống về dân chủ nhân quyền;
4. Kêu gọi chấm dứt ngay tất cả các hành động bách hại và sách nhiễu, và cho tất cả các tăng ni Phật tử được phép tu học theo truyền thống của cộng đồng tăng sĩ Phật giáo thuộc phái Thích Nhất Hạnh ở Bát Nhã và những nơi khác;
5. Ðòi hỏi phải trả tự do vô điều kiện cho Hoà thượng Thích Quảng Ðộ và phục hồi tình trạng pháp lý cho GHPGVNTN và các vị lãnh đạo Giáo hội;
6. Kêu gọi chính phủ Việt Nam hãy thiết lập một uỷ ban nhân quyền độc lập, để thâu nhận và điều tra các cáo buộc về tra tấn hoặc những vụ lạm dụng quyền lực của cán bộ nhà nước, kể cả các nhân viên an ninh, và bắt đầu tiến hành việc huỷ bỏ án tử hình;
7. Kêu gọi chính phủ Việt Nam, xét đến vai trò của mình là một thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, hãy đưa ra những mời gọi rộng rãi đến các điều tra viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc, nhất là những nhân viên điều tra về quyền tự do bày tỏ tư tưởng, tự do tôn giáo, tra tấn, các nhà bảo vệ nhân quyền và bạo hành đối với phụ nữ, đồng thời đến Nhóm công tác Liên Hiệp Quốc về bắt bớ trái phép; ...............
........................
Tổng quát14. Thúc giục nhà cầm quyền Việt Nam hãy trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả các nhà hoạt động nhân quyền, các tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm, vì giam giữ họ tức là vi phạm đến nhân quyền; đồng thời yêu cầu nhà cầm quyền bảo đảm cho tình trạng phúc lợi về thể chất cũng như tinh thần của họ trong mọi trường hợp, sẵn lòng giúp đỡ những người cần nó được đưa đến những nơi tốt, chuyên về chăm sóc y tế độc lập;
15. Kêu gọi Uỷ hội và Hội đồng Âu Châu hãy tiến hành một cuộc thẩm định rất chi tiết về việc thi hành các chính sách trong lãnh vực dân chủ nhân quyền được thực hiện ở Lào và Việt Nam kể từ khi ký kết Hiệp định Ðối tác và Phối hợp và báo cáo lại cho Quốc hội Âu Châu;

16. Chỉ thị cho Chủ tịch Quốc hội Âu Châu hãy chuyển nghị quyết này cho Hội đồng, Uỷ hội, các chính phủ và quốc hội các quốc gia thành viên Liên hiệp Âu Châu, chính phủ và quốc hội Việt Nam và Lào, văn phòng thư ký khối ASEAN, Cao uỷ Nhân quyền và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

Phan Lưu Quỳnh

KHI CSVN HIỆN NGUYÊN HÌNH



Lê Sáng









Anh hùng nghiã sĩ nước Việt đang ở đâu?
Trong nền văn hóa, giáo dục của bất cứ quốc gia dân tộc nào đều có kho tàng chuyện cổ. Những câu chuyện kể về quỉ dữ… hoành hoành hại người bằng đủ cách lưu manh… Nhưng không bao giờ chúng thiếu phương cách đội lốt Người. Không phải ai cũng có thần nhãn để nhận diện được nó. Chỉ có số ít người là anh hùng, anh dũng, mới có khả năng nhận diện quỉ dữ khi nó còn đang “ngoan ngoãn” trong lốt Người. Những người anh hùng bắt đầu bằng việc đơn thân chiến đấu với nó, buộc nó phải hiện nguyên hình... Rồi đánh thức dân lành hợp lực tiêu diệt nó. Sức mạnh tổng lực tiêu diệt ác nhân quỉ dữ thuộc về nhân dân. Nên có một điều chắc chắn: Nếu chưa bắt được ác nhân, quỉ dữ hiện nguyên hình, không thể tập hợp được sức mạnh tổng lực của nhân dân – Tức là nó vẫn còn cơ hội tiếp tục sống, tiếp tục tác yêu tác quái…Khi chiến đấu với chính nghĩa đến lúc gần thua, ác nhân quỉ dữ bắt đầu hiện nguyên hình. Nhưng khi đã hiện nguyên hình, ác nhân, quỉ dữ sẽ bị cô lập, và tự nó thu hút sự chống đối từ mọi phía… Khi quỉ dữ phải hiện nguyên hình thì cũng là lúc giờ định mệnh của nó đã điểm.Lịch sử xã hội loài người chưa từng có chủ thuyết nào, thế lực chính trị nào lại có cách thức lừa bịp, đội lốt người tinh vi như chủ thuyết cộng sản – Như người cộng sản. Bản thân chủ thuyết cộng sản đã là một thứ chủ thuyết lòe bịp. Tư duy sai lạc tạo ra chân lý như ảo ảnh trong sa mạc – Một thứ chân lý luôn ở phía trước, không bao giờ tiệm cận được – Trong khi đi về phía chân lý đó, người ta phải chém giết, cướp bóc chứ tuyệt nhiên chẳng có lao động, sáng tạo gì đáng giá… Thật là thảm kịch của xã hội loài người. Đã thế, người cộng sản trong khi áp dụng chủ thuyết cộng sản lại cũng không làm nguyên mẫu. Họ sáng tạo, thêm thắt… Nhưng là thêm thắt phi nhân… Chứ chẳng có chút nhân bản nào, ngay cả chút nhân bản với chính đồng đảng của họ.Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ nhận mình sai lầm, nhìn ra tội lỗi. Cái mà họ gọi là nhận sai lầm, sửa sai, cải tổ cải cách này nọ… Thực chất là một hình thức lòe bịp, đội lốt người lần thứ hai thứ ba… để xoa dịu lòng dân, không để cho người dân nhân diện được bản chất của họ mà quay sang tìm cách diệt đại họa… Nếu thực sự nhận ra sai lầm tội lỗi thì nó sẽ tự giải tán, tự kết liễu như quan thầy Liên Xô – Đông Âu của nó.Nhưng hôm nay, không biết csvn đang phải chiến đấu với những người anh hùng cụ thể nào ? mà họ đang hiện nguyên hình. Bản chất gian dối đội lốt người của csvn phơi bày một cách nhãn tiền. Cả bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương đang tự lột mặt nạ. Sự hung hãn của người cộng sản được đẩy lên cao trào. Bắt đầu là tấn công vào những người bất đồng chính kiến vì không bịt được tiếng nói của họ. Tiếp đến là tấn công vào các tôn giáo vì họ có đông đảo giáo dân quần chúng, và luôn là biểu tượng của đạo đức sáng láng trong cái xã hội đang rối ren, xuống cấp trầm trọng bởi các chính sách xảo quyệt cộng sản… Và đã đến mức “chó cùng dứt dậu” – csvn bắt đầu quay sang cắn xé nhau không thương tiếc, không còn kẻ nào nói được kẻ nào… Cũng không kẻ nào có sức mạnh vượt trội để trấn áp bạo lực giành quyền lực đen… Csvn đang hấp hối. Nhưng vì là ác quỉ, giờ hấp hối của nó không nhanh chóng, và không đơn thuần. Sẽ có nhiều máu và nước mắt dân lành người Việt cả trong và ngoài nước lại chảy …1) TRẤN ÁP BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN KHÔNG HIỆU QUẢ:Trấn áp bất đồng chính kiến, là việc làm thường xuyên liên tục của cs và csvn. Người cộng sản biết rằng nếu để tiếng nói bất đồng chính kiến cất lên mạnh mẽ, người dân sẽ tỉnh khỏi cơn mê bánh vẽ “thiên đường XHCN” và nỗi sợ thường trực “chuyên chính vô sản” mà cộng sản bày đặt mấy chục năm qua. Nhưng khoảng từ 2002 đến nay, việc trấn áp này diễn ra mạnh mẽ hơn, và được cs dùng nhiều thủ đoạn đê hèn, nhắm vào sức khỏe, sinh mạng của các nhà bất đồng chính kiến. Làm sao để họ suy sụp sức khỏe, từ đó mà tê liệt hành động… Ý chí không thể chuyển tải… Thành ra sống mà như chết. Rồi lấy gương họ mà răn đe toàn dân …Nhưng tre già măng mọc. Csvn bắt hết lớp này thì lại mọc ra lớp khác. Bây giờ bất đồng chính kiến không chỉ giới hạn ở mấy ông già đã nghỉ hưu, không giới hạn ở mấy ông “trí thức học hành trong chế độ cộng sản”, cũng không giới hạn ở nam giới. .. Bất đồng chính kiến hôm nay có cả các em sinh viên năm thứ nhất, mặt còn lông sữa, nhưng ý chí chẳng kém mấy ông già từng trải… Bất đồng chính kiến có cả giới công nhân, lao động, chẳng hiểu gì về các học thuyết chính trị rối rắm… Nhưng khảng khái chẳng kém mấy triết gia… Bất đồng chính kiến hôm nay có cả phụ nữ, đã có chồng, chưa có chồng con… Nhưng bất khuất chẳng kém các đấng “tu mi nam tử”, Thà ở tù chứ nhất quyết không nhận tội xin khoan hồng… Theo thời gian, csvn sẽ không đủ nhà tù, không đủ nhân lực để bắt giữ, tù đày bất đồng chính kiến…2) TẤN CÔNG TRỰC DIỆN VÀO CÁC TÔN GIÁO – ĐIÊN RỒ:Tấn công vào các tôn giáo một cách trực diện, bằng các sảo thuật lộ liễu, csvn dùng các thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, chụp mũ, chụp tội. Ngay sau đó, người dân nhận biết được sự thật thông qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông độc lập với cộng sản. Đằng khác, dùng thủ đoạn lưu manh lặp đi lặp lại trong thời gian ngắn, với nhiều tôn giáo, nhiều giáo hội, giáo phái khác nhau, thì đương nhiên là sẽ “bể mánh”. Và khi bể mánh, truyền thông csvn nói gì cũng chẳng ai tin. Ngay cả đảng viên cộng sản cũng ngao ngán và cảnh giác với các tin tức của bộ máy tuyên truyền cộng sản. Trong xã hội văn minh hôm nay, thứ tuyên truyền láo lếu của cộng sản như dòng nước xiết, xói mòn cái nền móng chế độ xây trên cát của nó. Càng tuyên truyền láo lếu, càng mất dần tác dụng tuyên truyền. Thậm chí tuyên truyền cộng sản, thành phản tuyên truyền cộng sản. Cộng sản tự giết mình mà không biết … Giấy phút chợt tỉnh, nó la lên rằng: đang có diễn biến hòa bình – tự diễn biến. Nhưng nó không thể hiểu được chính bộ máy tuyên truyền của nó đã đẩy người dân, và cả bộ phận đảng viên cộng sản tự đi tìm hiểu xác minh tin tức bộ máy tuyên truyền nó đã loan … Rồi sự thật đã làm họ bừng tỉnh. Diễn biến hòa bình chính là khi số đông con người bị lừa dối nay bừng tỉnh vì biết được sự thực chứ chẳng ai súi dục được họ.Hỡi ôi ! từ trong học thuyết, cho đến thực tiễn hành động cánh mạng của cộng sản, đều tổng kết và răn dậy nó rằng: “Tuyên chiến với tôn giáo là một điều ngu xuẩn” – Nhẵn tiền trong lịch sử nhân loại, chưa có thế lực chính trị nào tuyên chiến với tôn giáo mà giành được chiến thắng. Vậy mà csvn lại hung hãn tuyên chiến với tôn giáo bằng hành động tấn công mang tính bạo lực vật chất. Thật không thể hiểu nổi. Tấn công vào tôn giáo bằng lưu manh xã hội đen công an cộng sản, csvn đã hiện nguyên hình là thế lực phản động, một nhà nước tổ chức tội phạm.Nhưng có lẽ những ác nhân csvn hiện nguyên hình một cách “thuyết phục nhất” là nó hung hãn tấn công cắn xé nhau, và lóng ngóng để lòi cái đuôi làm tay sai cho bành trướng Bắc Kinh:3) CHƠI TRÒ DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG ĐỂ HẠ BỆ NHAU – LỢI BẤT CẬP HẠI:Trong lịch sử cũng như trong thâm cung bí sử của chế độ nhà nước csvn, chưa từng có trường hợp một “nữ anh hùng” mà cơ quan tuyên truyền của nó từng dày công tô vẽ xây dựng anh hùng bố - anh hùng con… Lại bị truy tố công khai, bất chấp ý kiến của những nguyên thủ công thần… Về một cái tội mà ở Việt Nam, ai cũng biết rằng cơ quan, cán bộ nhà nước nào cũng có dính dáng: “Lập quỹ trái phép”. Vụ án anh hùng Trần Ngọc Sương là vụ án cười ra nước mắt. Một vụ án làm cho bất cứ kẻ nào đi theo cộng sản, cũng gật mình. Chẳng có gì đảm bảo là ngày mai, “bộ máy tư pháp” nó chừa mình ra. Chẳng ai an toàn trong chế độ cộng sản bất kể là làm đúng luật hay “năng động” đi tiên phong làm “hạt nhân” đổi mới…Thật là mỉa mai, khi Nguyễn Tấn Dũng và các quan chức cộng sản đua nhau hót sau khi phiên tòa phúc thẩm vụ án chị Ba Sương vừa kết thúc: “Phải lắng nghe để xét xử công bằng” (http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=178318&ChannelID=12)Trong khi đó bao nhiêu là phiên tòa xét xử trong bóng tối, bịt mồm bịt miệng bị cáo, chặn bắt luật sư, cấm luật sư bén mảnh đến tòa, không cho luật sư đọc hồ sơ vụ án, không cho luật sư tiếp xúc với bị cáo… Công luận quốc tế không những lên tiếng mà con trưng bày cả bằng chứng… Thì những kẻ trơ trẽ này nói ráo hoảnh: Chúng tôi thi hành đúng luật pháp Việt Nam. Mọi công dân VN đều bình đẳng trước pháp luật… Có lẽ ông thủ tướng chưa học đến lớp 7 nhưng có bằng cử nhân luật này không đọc luật tố tụng hình sự VN ? Trong các nguyên tắc xét xử vụ án hình sự, mà chính cái nhà nước mà Nguyên Tấn Dũng đang làm thủ tướng đề ra, không có điều luật nào, qui định nguyên tắc xét xử phải “lắng nghe các luồng ý kiến, các thông tin nhiều chiều” cả. Việc xét xử là hoàn toàn độc lập. Các chứng cứ buộc tội và gỡ tội phải thể hiện trong hồ sơ mới được xem xét. Người ta chỉ xem xét chứng cứ chứ không xem xét dư luận.Mặt khác, nếu muốn thì nguyên thủ quốc gia cộng sản khét tiếng độc tài, tàn ác như thủ tướng ở Việt Nam, Dũng có thể ra lệnh miệng buộc đám quan chức hàng tỉnh lẻ kia phải làm gì cũng được, kể cả làm con vật mua vua cho Dũng. Vậy mà ông ta để cho vụ việc thành án có hiệu lực rồi mới nói là nghĩa làm sao ??? Sau khi Dũng lên tiếng, lập tức các bộ trưởng trong chính phủ của ông ta cũng vào hùa thậm chí có kẻ kết án cả cấp ủy đảng của cái tỉnh miền tây Nam Bộ cách Sài Gòn mấy trăm cây số đó là can thiệp trái luật vào các hoạt động tư pháp nếu sảy ra on sai thì ai chịu trách nhiệm ???… Tấn công thẳng vào cấp ủy đảng bằng báo chí tuyên truyền công khai, là một việc làm chưa từng có trong nội bộ đảng csvn… Nó là dấu hiệu phe phái csvn đang huyết chiến, chưa phân thắng bại… Và trò chơi “dân chủ trong đảng” đang được các phe phái đem ra để cài bẫy, đấu tố, hạ bệ nhau… Nồi da xáo thịt.Bản chất lưu manh, tính chất hai mặt của từng con người csvn bắt đầu được chính csvn cho lộ diện thông qua bộ máy tuyên truyền của nó. Những người phân tích chính trị độc lập trong nước Việt thì cho rằng, sự lộ diện bản chất lưu manh của từng quan chức csvn không phải là vấn đề chính yếu. Mà sự lộ diện bản chất lưu manh của cơ chế chính trị csvn mới là vấn đề to lớn mà có thể kẻ nào đó trong bộ máy quyền lực hắc ám của csvn đang tìm cách cho lộ diện… Quỷ dữ đang hiện nguyên hình, nhưng có lẽ không phải do các đối thủ bên ngoài tấn công lột mặt lạ… Mà chính từ bên trong, chính sự đau đớn bên trong, xuất phát từ cơ chế quyền lực bên trong đã làm cho từng cán bộ csvn đang nắm giữ quyền lực không chịu nổi, phải cho công khai để tìm cớ thay đổi.Nhưng có lẽ cũng không phải thay đổi theo chiều hướng có lợi cho tiến trình phát triển của văn minh nhân loại, mà chỉ đơn thuần là để những kẻ nắm giữ quyền lực csvn được thuận tiện hơn trong việc thâu tóm và hành xử quyền lực đang nắm giữ theo ý riêng… Nhưng kiểm soát được cuộc phiêu lưu này là một việc không đơn giản. Với bản chất lưu manh, xuất phát từ cơ chế quyền lực lưu manh xã hội đen… Không ai dám khẳng định những việc làm này của những ông trùm csvn sẽ luôn trong tầm kiểm soát… Đây mới là cái tự diễn biến “rất nguy hiểm” sẽ đưa csvn tới chỗ sụp đổ trong chớp mắt.4) TIẾT LỘ THỎA THUẬN BÍ MẬT ĐỂ GIẢI VÂY THOÁT HIỂM – CÓ THOÁT ĐƯỢC HIỂM?Trong ngoại giao với “đồng chí bành trướng bắc kinh” chưa bao giờ csvn lại lóng ngóng như mấy tháng cuối năm 2009. Lúc thì để cho đồng chí cộng sản cựu thù quản lý sever trang web thuộc chính phủ vn, đưa các tin tức như sỉ vào mặt quan chức chính phủ cs. Lúc thì tờ báo hàng đầu, cơ quan ngôn luận của đảng csvn đưa tin ca ngợi quân đội Trung Hoa đang bảo vệ lãnh thổ mới chiếm được của Việt Nam… Những việc làm lóng ngóng này, đẩy csvn vào thế thanh minh giải thích thế nào cũng vô ích, tự người cộng sản hiện nguyên hình là những kẻ tay sai cho bành trướng bắc kinh.Những sự cố này, làm người ta nhớ lại thời kỳ 1990-1992 khi quan chức csvn phải sang cầu viện xin hàng “bành trướng bắc kinh” … Rồi từ chỗ ghi danh cstq là kẻ thù nguy hiểm ngay trước mắt trong hiến pháp 1980 của nhà nước csvn, bỗng dưng csvn lại quay ngoắt, dựng lên sáu chữ vàng… Thế hệ lãnh đạo kế tiếp của csvn sau khi tiếp quản chức vụ mới được biết những nội dung thỏa thuận “đi đêm” giữa BCT ĐCSVN năm 1990 với BCT ĐCSTQ tại Thành Đô – Trung Quốc. Cái thỏa thuận này đã bó tay tất cả những kẻ tiếp quản quyền lực muốn chống Trung Quốc dù là trong ý nghĩ. Csvn đã phải bán tất cả, từ đất đai, biển đảo, tài nguyên quốc gia, đến cả sinh mạng chính trị của Mai Chí Thọ - UVBCT Bộ trưởng công an (vì bị cstq liệt vào diện phải ra đi mới bình thường hóa quan hệ với csvn) … cho đến cả liêm sỉ của mấy triệu đảng viên cho quan thầy “bành trướng bắc kinh” để được sống sót qua cơn đại hồng thủy Liên Xô và cộng sản Đông Âu sụp đổ.Sự lúng túng, sự bó tay trong quan hệ với quan thầy cstq - cái xiềng mà thế hệ lãnh đạo trước truyền lại cho thế hệ lãnh đạo csvn sau này có lúc làm nó phải điên đầu. Muốn tồn tại, thì phải phát triển, muốn phát triển phải dựa vào ngồn lực bên ngoài. Muốn dựa vào ngồn lực bên ngoài thì phải minh bạch hóa mọi tài liệu về đường lối chính sách, kể cả hiện tại lẫn quá khứ … Thoả thuận bí mật với bành trướng bắc kinh năm xưa lại không thể minh bạch. Vì minh bạch một thỏa thuận bán nước bán dân tộc để cứu đảng cộng sản thì còn chết nhanh hơn… Quan chức hàng đầu csvn bắt đầu tìm cách tiết lộ tin tức một cách không chính thức… Như để “mọi người thông cảm” cho tình thế hiện tại của nó, không phải do nó gây ra… Mà phải kế thừa di sản rách nát của thế hệ trước…Một mặt csvn mời họp Việt Kiều để thanh minh về việc “không có chuyện mất đất mất biển cho Trung Quốc. Mặt khắc nó lại để cho Dương Danh Di – quan chức ngoại giao kỳ cựu của csvn với Trung Quốc trả lời phỏng vấn trên BBC và công khai nói rằng ông ta từng chứng kiến thế hệ cha ông bị Trung Quốc lợi dụng sự ngây thơ để lấn đất, bằng cách làm đường sắt vận chuyển hàng viện trợ sâu vào lãnh thổ Việt Nam – Rồi sau này thương lượng hiệp định biên giới thì kiên quyết rằng đường sắt của họ đến đâu đất họ đến đó tiêu chuẩn quốc tế đã công nhận…Hé lộ tin tức kiểu này, dù là không chính thức, dù là truyền miệng, thì cộng sản con cũng đã lột mặt lạ cho cộng sản cha lộ nguyên hình. Cha nào con đấy, chứ chẳng ai lại “thông cảm” và hiểu cho khó khăn của cộng sản con vì bị cộng sản cha “ngây thơ” để mất đất cả … Người cộng sản nổi tiếng là nhiều mưu sâu kế độc, nhưng lắm lúc họ cũng rất ngây thơ và ấu trĩ.Chỉ trong vòng hai năm qua, csvn để sảy ra biết bao nhiêu chuyện rõ ràng là ngoài tầm kiểm soát của nó. Sự lúng túng, bị động lộ rõ đến mức chúng hành động như những kẻ lục lâm thảo khấu, quân hồi vô phèng vậy… Mặc dù nó vẫn lớn tiếng này nọ, nhưng thực chất, csvn bị phá sản về lý tưởng, đang bế tắc về lý luận, bắt đầu rối loạn về hành vi, và hiện nguyên hình của ác nhân quỷ dữ không thể thu phục, không thể cải tạo thành Người. Csvn cũng hiểu được rằng nó bắt đầu bị người dân nhận diện, thậm chí bị chính đồng đảng của nó nhận diện tố cáo… Mọi thủ đoạn lừa bịp khi xưa không còn tác dụng… Nó đang tứ bề thọ địch cho nên nó rất hung hãn… Máu và nước mắt người dân Việt lại rơi. Quy luật ác quỉ hiện nguyên hình báo hiệu giờ hấp hối của nó đang diễn biến. Nước Việt xưa không thiếu anh hùng, dân Việt xưa không thiếu nghĩa sĩ – Bây giờ ở đâu ?
Nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/73916.htmt

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009



Chủ tịch nước phát biểu: Hiểu ... chết liền!

PhoNang; 22/11/2009
Nguyễn Minh Triết, trong cương vị chủ tịch nước CHXHCNVN, được xem là người đứng đầu nhà nước CSVN, nếu không kể bên đảng. Thế nhưng lời ăn tiếng nói của chủ tịch nước trước cử tọa, lúc nào cũng ngô nghê không đầu đuôi, không khác gì một đứa trẻ con học lớp ba đang tập diễn thuyết trước lớp vậy.Suốt thời gian qua, ông chủ tịch này đã có những phát biểu khiến người nghe nhiều phen phải ôm bụng cười lăn. Gần đây trong chuyến công du Hoa Kỳ, khi ghé qua Cuba, ông cũng đã có lời phát biểu “để đời” như sau:
Nguyễn Minh Triết: "Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba ngủ"
“Có người ví von: Việt Nam Cu-Ba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía ... Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau CANH GIỮ HÒA BÌNH CHO THẾ GIỚI. Cu-Ba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cu-Ba nghỉ”.Không biết sau những lần phát biểu theo kiểu tùy hứng như vậy, ông chủ tịch có ngộ ra được điều gì không, nhưng mới ngày hôm qua tại “Hội nghị người VN ở nước ngoài” ở Hà Nội, ông lại tiếp tục ê-a với những câu văn khó hiểu trước một cử tọa gần 1,500 người.Bài diễn văn của Triết tại hội nghị này cũng khá dài, vì phải quanh co “điểm lại tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước trong những năm gần đây”. Khi nhắc đến chuyện “tiêu cực” tham nhũng đang tràn lan tại Việt Nam, Triết cao hứng phát biểu:“Ở Việt Nam, không muốn tham nhưng vẫn phải động lòng tham vì quản lý kém quá. Cho nên, trong tiêu cực, tham nhũng có phần do quản lý yếu kém chứ không phải do người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới. Quý vị ở nước ngoài khi nghe thông tin này, cũng đừng hốt hoảng cho rằng sao tham nhũng ở Việt Nam nhiều thế. Đây là quy luật muôn đời, con người luôn có hỉ nộ ái ố, cho nên phải luôn luôn vượt qua, mà quan trọng hơn phải vượt qua chính mình. Cái đó cực kỳ quyết định”Lạ thật, nói đến tham nhũng mà chẳng hề nghe Triết nêu đích danh quan chức nhà nước, mà cứ nói bâng quơ, không đâu vào đâu.“Ở VN, không muốn tham nhưng vẫn động lòng tham,...”. Ơ hay, ai khiến. Mà kẻ có thể tham ở đây là ai vậy? Là quan hay dân? Là tham nhũng hay tham lam? Là con người thì ai chẳng có lòng tham, nhưng tham nhũng thì chỉ có quan chức thôi, chứ dân thì lấy quyền hạn gì để tham nhũng đây? Lại nữa, ai “quản lý kém quá” đây? Không lẽ là dân đen sao?Mà xin hỏi ông chủ tịch, tại sao quan chức “không muốn tham nhưng vẫn động lòng tham”? Nói kiểu này, có phải là quan chức nhà nước không thể cưỡng lại “ma lực” của đồng tiền hay là lòng tham đã “nung nấu” sẵn trong thâm tâm các quan chức, chỉ chờ có dịp là ra tay ngay?Trong câu kế tiếp thì ông kết luận rằng “tham nhũng có phần do quản lý yếu kém chứ không phải do người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới”. Vậy xin cám ơn ông chủ tịch đã xác nhận nạn tham nhũng ở VN là nhất thế giới, nhưng cũng xin nói rõ rằng quản lý yếu kém chỉ là một trong nhiều yếu tố tạo nên tham nhũng mà thôi, trong khi “đạo đức cách mạng” và “đạo đức XHCN” của các quan chức mới là yếu tố chính tạo nên nạn tham nhũng tràn lan hiện nay ở VN. Đương nhiên, “không phải do người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới”, mà chính xác là Việt Cộng tham nhũng nhất thế giới đấy ông chủ tịch ạ.Cũng xin ông chủ tịch chớ có “lo lắng” rằng người Việt Nam ở hải ngoại sẽ “hốt hoảng” khi nghe những câu chuyện tham nhũng ở Việt Nam. Đối với họ, chuyện tham nhũng của các quan VC là “chuyện thường ngày ở huyện” rồi, chẳng có gì bàn cãi nữa. Nhưng xin ông chớ có cho rằng chuyện tham nhũng là “quy luật muôn đời” bởi vì “hỉ nộ ái ố” đúng là chuyện thường tình của bất cứ con người nào, nhưng chuyện tham nhũng lại là chuyện của quan chức mà thôi.Nói rằng “phải vượt qua chính mình” trước cử tọa Việt kiều thì bằng thừa ông ạ, bởi vì kẻ “phải vượt qua chính mình” không ai khác chính là bản thân ông và các quan chức VC đấy.Nói xong, ông lại phán “Cái đó cực kỳ quyết định”, thì rõ thật là vô duyên, chẳng ăn nhập vào đâu cả. Mà “cái đó” là cái gì đây? Quyết định như thế nào mới là ... cực kỳ? Câu văn này không đầy đủ, lủng củng nếu không muốn nói là tối nghĩa, còn nói theo cách của ông diễn đạt thì ... cực kỳ tối nghĩa!Nghe ông chủ tịch nói xong câu này thì có lẽ cử tọa không hiểu nên cười ồ lên, nhưng gặp phải mấy anh phóng viên “lề phải” bẻ cong ngòi bút nói trại đi là “cả hội trường đồng loạt vỗ tay”.Nói theo ngôn ngữ bình dân hiện nay của người miền Nam là … hiểu chết liền!

Úc Châu, ngày 22/11/2009

Lê Minh

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

VÀI LỜI TÂM HUYẾT GỞI CÁC CHÁU DZIỆT KIỀU


Tô Hải
Phải nói ngay rằng: bài này tớ dành riêng cho lớp Dziệt Kiều vào tuổi u 50-u 60, nghĩa là đồng trang lứa với hơn… 60 cháu nội, ngoại, xa, gần của tớ đang sống và làm việc ở khắp thế giới mà tớ đã tính sơ sơ được, con số này phải lên tới vài trăm nếu kể cả các cháu, con của bạn bè đồng học, đồng đội, đồng hương... nhưng nay chẳng may cũng bị gọi là Dziệt Kiều (còn yêu nước nhiều hay ít thì chưa biết). Tớ không dám ý kiến ý cỏ gì với các vị trưởng lão Việt Kiều ở cùng tuổi tớ hoặc là đàn anh của tớ vì tớ tin chắc rằng, đối với các vị này, mọi lời khuyên nhủ, xúi bẩy đều... vô tác dụng! Lí do:1) Vụ trở thành Việt Kiều bất đắc dĩ của các vị này là một nỗi đau không thể nào hàn gắn lại được. Sự căm thù cộng sản đã làm các vị mất hết quyền lợi, chức vụ, nhà cửa, tài sản, tan nát gia đình, đi học tập cải tạo, vượt biển, sẵn sàng làm mồi cho cá mập đại dương để rồi lại bị gọi là những “đĩ điếm ma cô, lưu manh… bám theo địch kiếm bơ thừa sữa cặn…” thì dù có đến 3600 cái nghị quyết 36 cũng chẳng thể nào “xóa bỏ quá khứ, hướng tới tương lai” được. Cho nên, dù các vị có “chống cộng quá khích, phát biểu hung hăng hoặc… kệ mẹ sự đời, tớ cũng chẳng dám khuyên can hoặc tiếp lửa!2) Tóm lại, cái lo của tớ chính là lo cho các cháu Dziệt Kiều khi ra đi chưa thấy tổ quốc mình nó tròn méo ra sao hoặc mới lên năm lên ba đã kéo dài cuộc sống tị nạn trong các trại tập trung, Galang, Bidong…. Đặc biệt hơn nữa là những cháu Dziệt Kiều bằng xương bằng thịt đã có dịp về Sài Gòn, Hà Nội trực tiếp đến thăm tớ thì tớ mới thấy rõ là cái nghị quyết 36 nó ra đời là nhằm vào chính các cháu Dziệt Kiều này, chứ không dám rớ tới mấy bác Việt kiều trưởng lão. Lý do:a) Các cháu không có một quá khứ căm thù, thậm chí không hề biết căm thù hoặc có căm thù tí chút nhưng nay đã... quên đi không ít thì nhiều.b) Về đến Việt Nam, hầu như các cháu tôi đều phát biểu giống ông Nguyễn Cao Kì: “Đi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vô Nam, cháu có thấy cái gì là cộng sản đâu?”, vậy mà mấy ông chống Cộng ở bển cứ hô loạn lên, cứ như đánh nhau với ma ấy!c) Người ta bảo ở Việt Nam mất tự do nhưng chúng cháu lại cho rằng ở Việt Nam này … tự do nhất thế giới! “Chỉ cần có đô la, rượu quý uống thả ga, đàn bà vơ cả đống!". Ngay giữa một tiệm ăn trung tâm Hà Nội, trong một bữa tiệc liên hoan với gần 30 Dziệt Kiều trẻ về du hí đất nước (trong đó có cháu ruột tớ), sau vài chén ngà ngà say, một cháu Việt Kiều đã đứng lên nâng cốc hô lớn “Hãy trở về quê hương, Việt Nam thiên đường của thế giới! Việt Nam đã đổi mới! Trở về! mau trở về!”. Chuyện có thật này xảy ra ngay trong nội bộ họ hàng nhà tớ, nói láo trời bắt chết ngay tối nay!”d) Một số cháu Dziệt Kiều khác thì lại tỏ vẻ “cao đạo” hơn bằng những phát biểu có vẻ “không quan tâm đến vấn đề chính trị”, thậm chí “siêu chính trị” với những nhận định như sau - Về nước Việt Nam không lo làm ăn lại cứ dính vào những vấn đề tự do, dân quyền thì về làm gì? - Thế hệ bọn cháu không thích nói chuyện chính trị, vv...
Tóm lại, suốt 20 năm qua được sống, được gặp và được trao đổi với các cháu Dziệt Kiều đã để lại trong tớ nhiều niềm vui và nỗi buồn cho tương lai của đất nước nếu sau này có một phép lạ nào đó dẫn đến hòa hợp dân tộc … thật sự. Vậy mà, tin ở bên Mĩ đưa về, bên ta phát ra, chỉ trong tháng 11 này thôi sẽ có một cuộc gặp gỡ lớn mang tên “Meet Việt Nam” tại San Fransico và hội nghị Dziệt Kiều toàn quốc tại Hà Nội tập hợp tới 900 đại biểu từ khắp các nước trên thế giới. Chẳng hiểu tiêu chuẩn được mời dự sẽ là những ai nhưng chắc chắn không thể nào gồm toàn những người coi Việt Nam như là một điểm du hí rẻ tiền. Càng không phải là một nơi để các đại biểu về đọc các bài diễn văn, phát biểu vô thường vô phạt. Chỉ nghe qua lời giới thiệu của Ban Dziệt Kiều Trung Ương là thành phần dự hội nghị lần này đều là những “Dziệt Kiều tiêu biểu” thì tớ đã giật bắn người, chẳng biết mấy ông cháu của mình có lọt vào danh sách tiêu biểu đó không. Tớ cũng lại lo rằng: Hầu hết sẽ lại bao gồm những cháu Dziệt Kiều không thích chính trị lại ngồi bên mấy ông Dziệt Kiều Đông Âu (xuất cảng lao động, nay làm ăn buôn bán khó khăn ở các thứ chợ vòm, nay muốn nhờ vả sự giúp đỡ, can thiệp của các sứ quán) lại sẽ thay phiên nhau lên đọc vài câu chúc mừng đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Liệu có mấy đại biểu được mời như giáo sư tiến sỹ Nguyễn Đăng Hưng dám tuyên bố: “Ở cái thời điểm vừa ban hành nghị quyết 97, IDS vừa tự giải tán. Tia Sáng vừa bị đóng cửa thì việc triệu tập hội nghị Dziệt Kiều này là không hợp thời?! Trước tình hình dù muốn hay dù không thì hội nghị sắp tới cũng vẫn diễn ra. Cũng sẽ có đủ người Nga gốc Việt, người Pháp gốc ta, người Tây gốc Giao Chỉ, người Bỉ gốc..Xè-Gòn… Cũng sẽ có dziệt kiều vượt biên, dziệt kiều đi học, dziệt kiều công tác bỏ trốn, dziệt kiều xuất cảng lao động bỏ chạy sau vụ dổ tường Bá linh…. nghĩa là đủ loại dziệt kiều... cơ hội… Cũng sẽ có tuyên bố khai mạc, bế mạc, và chắc chắn sẽ có một bản tuyên bố chung cực kỳ hoành tráng và đầy chữ nghĩa rối rắm trừu tuợng chung chung và thế nào cũng kết thúc thắng lợi cực kì to lớn, có thể lịch sử nữa! Vậy thì, nhân danh tớ, một lão già đã có khá đủ kinh nghiệm suốt quá trình 65 năm được “ưu ái”, được ôm cả đống vinh quang với thành tích chuyên lừa dối người khác và lừa dối mình, tớ xin cảnh giác cho các cháu Dziệt Kiều thân yêu mấy điều sau đây:1) Đừng có ảo tưởng, đây chỉ là chuyện “về nguồn” xây dựng đất nước, không cần xu hướng chính trị chính chọe gì.2) Trừ những người đã được mời để "làm cảnh", tất cả các chú hãy lợi dụng cái “diễn đàn mở” (theo như lời hứa hẹn của Ban Tổ Chức) này mà cùng tiến sỹ Đăng Hưng cứ kéo nhau về mà đặt những vấn đề huỵch toẹt ra để yêu cầu được trả lời.a/- Chúng tôi là những người không cộng sản, chúng tôi sẽ đóng góp gì, đóng góp thế nào để xây dựng một nền kinh tế thị trường mà con đường tất yếu các ông lại cứ kiên quyết đi theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và coi xã hội chủ nghĩa là lí tưởng bất di bất dịch, là khát vọng của loài người (trích chỉ thị 34 mới ban hành). Vậy thì, quyền tư hữu, nhà cửa, ruộng đất, nhà máy của chúng tôi liệu có bị mang ra cải tạo, đấu tố, tịch thu như xưa kia khi những người tiền nhiệm các ông đã đối xử với cha ông chúng tôi không?b-/ Chúng tôi có quyền góp ý, phản biện những gì mà chúng tôi thấy là phản khoa học, không có lợi cho sự phát triển của đất nước, góp ý kiến thay đổi về tổ chức cũng như những con người trong các các cơ quan nhà nước mà chúng tôi không thể không lệ thuộc khi về góp phần xây dựng đất nước không?
c-/ Trong lĩnh vực đời sống, do đã bị tiêm nhiễm, từ lúc mới lọt lòng mẹ, phong cách tự do, phóng khoáng của các nước “tư bản giẫy chết”, do quá quen với những khái niệm dân chủ, nhân quyền của thế giới phương Tây, đặc biệt là tự do thông tin, tự do phát biểu, chỉ trích chẳng chừa một ai, kể cả tổng thống, thích xem thích đọc gì không ai cấm, liệu khi về Việt Nam, vẫn mang quốc tịch Mĩ, Pháp, Ý, Ba Lan, Đức, Hungary… có bị các chỉ thị về văn hóa, tư tưởng, chế tài? Những điều thắc mắc trên yêu cầu được giải đáp, chính là những điều cốt tử để các chú Dziệt Kiều quyết định số phận của mình có nên dính líu tới đất nước VN trong lúc này không đấy! Cũng cần phải cẩn thận, tế nhị trong lời ăn tiếng nói kẻo mấy chú lại bị người ta xếp vào hàng ngũ “lực lượng thù địch”, vào "những bọn đĩ điếm ma cô, bám đít đế quốc” hoặc những bọn “Peace Corp”, "USAID"… đang âm mưu làm cho Nhân dân, cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ ta đang “tự diễn biến” để... chuyển sang “cách mạng màu”!? Chẳng cần nêu lại các số phận khốn lịn của mấy chú dziệt kiều Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Gia Thiều, Trịnh Vĩnh Bình... xuýt mất mạng trước đây làm gì! Thế nào cũng sẽ được trả lời bằng... băng cassette: "Dó là bọn phạm pháp hình sự"... truy tố theo điều luật 88 "Nghe phải lại thêm... tức cái mình!Cứ nghe... khôn tớ, tranh thủ thẳng thừng đặt mấy câu hỏi này xem mấy ông có dám trả lời không? Bất quá thì lần sau không mời vì không... tiêu biểu... thôi! Chẳng lẽ lại trục xuất “người nước ngoài gốc Việt” tại chỗ không chờ hội nghị kết thúc!Ôi! Sao tớ thèm làm "Dziệt kiều tiêu biểu" lúc này quá!
Nguồn: Nhạc sĩ Tô Hải's Blog

CẢM TẠ CHÚA : TÔI ĐÃ RỜI KHỎI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CỘNG SẢN !


Ed Oshiro, MPH
Trần Trúc Lâm chuyển ngữ
(LTS: Ai có ý định về VN làm ăn hay làm việc thiện nguyện, xin hãy đọc kỹ bài này).


Ba mươi phút sau khi chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam chở chúng tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất, chúng tôi nhìn xuống những đồng bằng màu đỏ trơ trụi của xứ Cambodia, tôi và vợ tôi bỗng dưng có một cảm giác kỳ lạ của sự thoải mái và tự do. Hú vía, chúng tôi thực sự đã thoát khỏi những sự sách nhiễu, hăm dọa và tham nhũng thường nhật của các giới chức Việt Nam, và cái gánh nặng đè trên vai trong ba tháng qua chợt trút mất.
Mọi chuyện như bắt đầu từ mùa thu năm ngoái, khi tôi nhận làm quản lý hải ngoại vụ cho Cơ Sở Đông Gặp Tây (East Meets West Foundation) hiện đang trông coi một bệnh xá toàn khoa cho “kẻ nghèo nhất trong đám nghèo” và một cô nhi viện với 125 trẻ em ở ngoại ô thành phố Đà Nẳng, Việt Nam. Tôi đã quyết định chụp lấy cơ hội hưu trí sớm với đầy đủ cấp dưỡng do Group Health đề nghị và về hưu vào đầu tháng Giêng với ý định đi phục vụ tình nguyện khoảng một đến hai năm tại Việt Nam , bắt đầu vào giữa tháng giêng.
Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.
Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy chiếu khán đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt cộng) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước. Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu nhập cảnh cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.
Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).
Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm.
Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.
Vài ngày sau khi tôi bắt đầu làm việc, thì cô kế toán viên bay đi Florida để làm đám cưới với anh bác sĩ Mỹ mà cô đã quen trong thời gian anh ta phục vụ tình nguyện cho bệnh xá. Khi chúng tôi rao tuyển người thay thế thì viên Bộ Trưởng chuyển đến một danh sách ứng viên mà y muốn chúng tôi thâu dụng. Chúng tôi bác ngay vì họ không biết tí gì về kế toán và chẳng có chút năng khiếu gì về Anh ngữ. Chúng tôi tuyển được một cô có bằng kế toán và nói giỏi tiếng Anh, nhưng viên Bộ trưởng và Sở Công An lại trì hoản việc chuẩn y thâu dụng, cho mãi đến khi tôi nghĩ rằng, có chút tiền đút lót hoặc cô ta chịu chia một phần lương của cô.
Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ.
Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việt Nam ... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam . Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải ghi danh quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam , đặc biệt là những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam .
Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.
Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, tiểu ra máu, tiêu chảy, v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm thấy không được khỏe.
Một bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và bà chỉ cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quan Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có khám ra được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.
Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (Việt Cộng) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng thích thú về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.
Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dân xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà mới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn, v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.
Ở một làng khác, các viên chức đòi tôi phải cấp một ngân khoản để xây một ngôi chợ mới, và khi họ biết tôi không thể làm được, họ bắt giữ tôi lại tại chỗ rồi ra lệnh cấm tôi rời khỏi trụ sở ủy ban. Đêm đó tôi bị buộc phải ngủ trên sàn gỗ bẩn thỉu với một mảnh mền rách, và một tên an ninh nằm ngủ bên cạnh canh phòng tôi trốn. Cho thêm phần khốn khổ, tên an ninh này lại bị cụt tay vì mìn, y đặt cánh tay cụt lên bụng tôi suốt đêm mà ngủ. Còn tôi thì làm sao mà ngủ được, nằm nghĩ ngợi lung tung, mấy ai tin được rằng tôi lại ngủ trên sàn nhà một văn phòng đảng Cộng Sản, cạnh một tên công an Cộng Sản, mà cánh tay cụt của hắn lại đặt trên bụng tôi! Đó là một trong những đêm kinh dị và hãi hùng nhất trong đời. Tôi cứ ngỡ mình bị ác mộng.
Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn tiệm. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s). Họ bảo ràng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.
Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vậy. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!
Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam . Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam ! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm quyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.
Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam . Hy vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.
Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn chiếu khán và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.
Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi, bò lổn ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả gián dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.
Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.
Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bởi quyết định này vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.
Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.


Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mercer Island (thành phố Seattle, tiểu bang Washington) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.

GOOD-BYE VIETNAMby Ed Oshiro, MPH (Master of Public Health)

Thirty minutes after our Vietnam Airline flight departed from Tan Son Nhut airport in Ho Chi Minh City, we looked down upon the denuded red plains and my wife and I instantaneously felt an incredible sense of relief and freedom. We were finally free from the daily harassment, intimidation and greed of the Vietnamese officials and we could actually feel the weight of the last three months lift off our shoulders.
It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the “poorest of the poor” and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct=2 0pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.
A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam. Upon our arrival in San Francisco, we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam. When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 “handling fee” and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.
On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we h ad to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.
A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.
Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam… $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware20that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we met were South Vietnamese.
During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect. What else could they do? They didn’t have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.
An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can’t do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.
As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People’s Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation – only my money. I was not invited back to the Ministry.
When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People’s Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People’s Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.
Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors c ould eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA’s. They stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn’t expect to find anything. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA’s in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!
After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam. The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc … and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese cl aimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam.
I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clinic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors.. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.
Several weeks after we arrived in Da Nang, the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Viet namese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did – for one night. It was only partially completed with electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.
Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam. We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.
One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia.

Ed. Oshiro