Tình hình khẩn cấp SOS:
Bùi Tín
Ai du nhập hiểm nguy ?
Làm gì để cứu nguy đất nước ?
Hiểm họa bôxít là có thật.
Hiểm họa bôxít là cực kỳ nghiêm trọng.
Các trí thức hàng đầu của đất nước ta đã cất lên, khẩn cấp và nghiêm khắc, lời cảnh báo đầy sức thuyết phục.
Mời đồng bào đọc kỹ lại những bài của tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà báo Phạm Đình Trọng, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung, các tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Trọng Vĩnh...
Những tài liệu quốc tế cũng xác minh thêm những hiểm hoạ diệt môi trường và diệt mạng sống con người của chất độc bôxít.
Hôm nay, nữ chuyên gia về môi trường của Liên Hợp Quốc Nguyễn Thùy Trang hiện công tác ở châu Phi góp thêm tiếng nói cảnh báo sâu sắc về nguy cơ của "bụi đỏ" và "bùn đỏ" đối với mạng sống con người. Ở châu Phi, "bùn đỏ" bôxít gây nên dị tật cho thai nhi động vật uống phải nước ô nhiễm; ở châu Úc, "bụi đỏ " bôxít gây ung thư phổi, viêm mũi, biến dạng cổ tử cung cho động vật thí nghiệm. Trên con người, "bụi và bùn đỏ" gây nên khó thở, chóng mặt, buồn nôn, sau đó đau ngực, có thể bị xỉu bất cứ lúc nào. Bụi đỏ nhẹ tung bay mọi nơi, bùn đỏ ngấm vào mọi nguồn nước, gây ô nhiễm sông, hồ, giếng ở những vùng rộng lớn. Rau nhiễm bụi đỏ chứa chất độc. Nước mưa cũng nhiễm bụi độc trong không khí.
Ai là người chủ trương khai thác bôxít ? Đó là 15 người trong bộ chính trị đảng CS, cụ thể là tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đích thân hạ bút ký trong Tuyên bố chung Việt - Trung năm 2008, là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng coi chủ trương khai thác bôxít là "chủ trương lớn của nước ta", là bộ trưởng ngoại giao Phạm Gia Khiêm lén lút cho hàng chục ngàn công nhân Trung quốc vào nước ta, rải từ Lạng Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh, vào Lâm Đồng, Đak Nông, Bình Thuận cho đến tận Cà Mau. Mặc cho lao động ta thất nghiệp lên gần nửa triệu, họ đang có kế hoạch đưa 30 vạn lao động Trung quốc vào nước ta trong năm nay, bất kể việc này đang và sẽ gây nên những xáo trộn về kinh tế, tài chính, văn hoá - xã hội và an ninh phức tạp chưa lường hết.
Bộ chính trị độc đoán bỏ ngoài tai mọi cảnh báo, can ngăn; lo ngại trước yêu cầu mở một cuộc thảo luận khoa học rốt ráo; tảng lờ đòi hỏi tổ chức một cuộc hỏi ý dân; không dám tổ chức cho Mặt trận Tổ quốc phản biện. Họ lao vào hành động, cứ như đất nước này là của riêng họ, ngang nhiên khiêu khích công luận và nhân dân đông đảo.
Chưa bao giờ nhóm lãnh đạo toàn thể bộ chính trị phơi bày bản chất độc đoán, sùng ngoại, quay lưng lại với nhân dân, cúi đầu trước ngoại bang như hiện nay.
Họ coi mỗi ý muốn của Trung Nam Hải - Bắc kinh như ý Trời; coi yêu cầu của nhóm Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo như nghiêm lệnh của cấp trên; họ tự đánh mất tư thế lãnh đạo khi tỏ ra không còn lòng tự trọng của quốc gia, không bảo vệ cuộc sống và quyền lợi của dân tộc này. Nhóm lãnh đạo đất nước, ngồi ở trên cao mà để cho những công dân Nguyễn Thành Sơn, Phạm Đình Trọng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Trọng Vĩnh (đã nghỉ hưu), cô Nguyễn Thuỳ Trang khuyên bảo lời hơn lẽ thiệt, dạy khôn ngoan và đạo đức, mà vẫn không chịu nghe ra, không chịu sáng mắt ra.
Vậy thì mọi công dân thật lòng yêu nước, thật lòng thương dân, chúng ta phải làm gì đây ?
Chúng ta không ở trong một nước dân chủ, không thể chờ một cuộc tổng tuyển cử mới để mời 15 vị ù lỳ tệ hại về nghỉ, tự chọn ra những nhân tài chân chính thật ra không hề thiếu. Việt nam vẫn còn là một trong 55 nước không có tự do trong gần 200 nước trên quả đất. Bế tắc, và nhục. Nước "đèn đỏ tự do", nên chuốc lấy "bụi đỏ" , "bùn đỏ" và mọi tai hoạ khác như tham nhũng, trì trệ hôm nay.
Không thể khoanh tay thúc thủ, để mặc cho hiểm hoạ lù lù đến cho nhân dân và đất nước.
Bạn biết không, bành trướng đang lấn mạnh khi thấy kẻ cầm quyền thúc thủ. Các công ty điện, ximăng, hoá chất, nhôm CHALCO, Nhất An/Quảng Tây giăng cờ xí khắp vùng Qủang Ninh, Hải Phòng, Tây Nguyên, Cà Mau rồi. Họ đi lại như nơi vô chủ. Đất nước lâm nguy !
Mọi sáng kiến xin tìm tòi và phát biểu khẩn cấp.
Từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng lên Tây nguyên hãy xuất hiện khắp nơi khẩu hiệu : "KHÔNG với Bôxít" , " STOP ! Bôxít ! ",
" Ngưng lại !Bôxít! Ngưng lại! lao động nước ngoài ! "
" Hãy mở Hội thảo khoa học về bôxít đã !"
" Bụi đỏ, bùn đỏ bôxít là nguồn chết ! "
" Không phá chè, cafê, tiêu, cao su - nguồn sống xanh của Tây
Nguyên!"
Xin mời các giới, tổ chức, hội...cần và nên tham gia cuộc vận động khẩn cấp bảo vệ màu xanh Tây nguyên :
- Giới bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường, Bộ tài nguyên và môi trường ;
- Giởi y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Hội Chữ Thập Đỏ ;
- Giới luật học, luật sư, sinh viên luật:thực hiện luật Môi trưởng; - Các công đoàn, bảo vệ công nhân VN, phản đối đưa ồ ạt lao động nước ngoài vào;
- Các cựu binh sỹ từng tham gia các chiến dịch Tây nguyên và chiến trường Tây nguyên;
- Các hội đoàn công nghiệp và kỹ thuật, các nhà khoa học ;
- Các tổ chức du lịch, bạn của Đà lạt, Lâm Đồng, của Tây nguyên; - Giới báo chí, báo ngày, báo tuần, báo mạng, báo nói, các bloggers tự do, với những bài bình luận, nghiên cứu, thông tin, phóng sự, phỏng vấn, ảnh chụp nhanh, nhậy, kịp thời. Hơn 10 nghìn nhà báo, báo viết, báo nói, báo ảnh, im cả sao !
- Giới tôn giáo : cầu nguyện, tụng niệm, kiến nghị bảo vệ giáo dân (vùng khai thác hiện tại có nhiều bà con dân tộc theo đạo Tin Lành ), cho Quốc thái Dân an, cầu soi sáng những người lãnh đạo mù quáng, tham nhũng, tối tăm ...
Các tổ chức và cá nhân, hãy đánh động dư luận, bàn tán, trao đổi về đề tài Bôxít, những ngày nghỉ, buổi nghỉ, nhân các cuộc gặp mặt, ma chay, đình đám, hội hè, cưới xin ...
Các cử tri địa phương hãy chất vấn mạnh mẽ các đại biểu Quốc hội để buộc bộ chính trị CS phải mở mồm giải trình minh bạch trong khoá họp tháng 4 này.
Đặc biệt các bạn trẻ năng động đầy sáng kiến và nhiệt huyết !
Mỗi người góp một tay, chúng ta sẽ cùng nhau làm nên chuyện lớn. Toà nhà nào cũng làm nên từ từng viên gạch quý.
Xin bà con đồng bào ta đồng tâm nhất trí coi các đề tài đấu tranh nóng bỏng Xuân - Hè 2009 này là :
- chủ quyền quốc gia toàn vẹn trên đất liền, vùng biển và đảo của Tổ quốc : đòi công bố bản đồ chi tiết đường biên giới; đòi đăng ký thềm lục địa mở rộng cho Liên Hợp Quốc trước 13-5-2009.
- từ bỏ ngay việc khai thác bôxít theo thúc ép của ngoại bang, hiểm họa mọi mặt và lâu dài cho đất nước và dân tộc !
- đưa ra xét xử công khai không chậm trễ các vụ tham nhũng lớn PCI, PMU 18 ... và 10 vụ khác như Ban chống tham nhũng đã cam kết (vụ PMU18 kéo dài hơn 3 năm) .
Tình hình khẩn cấp. Tây Nguyên là mái nhà Việt nam.
Đất nước lâm nguy. Trong ngoài câu kết, họ phá ta từ mái nhà phá xuống.
Cả nước đứng cả dậy, thét : không ! không với khai thác Bôxít.
Stop ! Bôxít.
Không ! Việt nam không phải dân hèn, dân loại 2, gánh chịu muôn vàn tai hoạ thay cho dân thượng đẳng, thay cho chủ, như 15 bộ não lãnh đạo mất gốc thôi thúc. Thôi nhé ! Đủ quá rồi !
Keo này thử sức. Gan vàng dạ sắt. Cả nước, trong, ngoài gắn bó, Việt nam ta quyết thắng. Việt nam ta sẽ thắng !
Có phải không ? Cô ! bác ! anh! chị ! các bạn !
Bùi Tín
Paris 31-3-2009.
Thứ Ba, 31 tháng 3, 2009
LỜI KÊU GỌI MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện
90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon----------------------------------------
Phật lịch 2552 Số 03 /VHĐ/VT
Phật lịch 2552 Số 03 /VHĐ/VT
LỜI KÊU GỌI MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài
Bất chấp những lời báo động hiểm nguy của các chuyên gia, trí thức về việc khai thác quặng bô-xit ở Tây nguyên, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dủng vẫn một mực tiến hành việc lựa chọn nhà thầu Trung quốc vào Tây nguyên khi khẳng định : "Khai thác bô-xít Tây nguyên là chủ trương của Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X", nghĩa là từ năm 2006.Toàn dân thông qua ý kiến của các giới chuyên gia, trí thức, học giả đưa lên báo chí, truyền thông, Internet đều báo động rằng khai thác bô-xít sẽ hủy diệt mầu xanh rừng Tây nguyên, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lủ ống, lủ quét sẽ xẩy ra nhiều hơn, đồng thời ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu ở miền Nam Trung bộ, Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Saigon. Từ nghìn xưa, mầu xanh rừng Tây nguyên bảo vệ cho việc tích trữ nước trong lòng đất, lọc không khí và điều hòa nhiệt độ toàn vùng. Phá hủy mầu xanh còn là phá hủy nghiêm trọng không những cảnh quan mà sắc thái văn hóa và quyền sống của hàng chục dân tộc ít người trên vùng cao.
Không là kim loại chiến lượcTheo các báo cáo khoa học thì quặng bô-xít để sản xuất nhôm không là kim loại chiến lược. Giá trị kinh tế của nhôm không cao hơn việc trồng cây công nghiệp ở Tây nguyên. Bô-xít là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh. Còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn và có tái sinh. Ấy là chưa nói đến công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ "ướt", trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ "ướt" sang công nghệ "khô" trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long.Bức thư ngỏ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dủng cho biết từ năm 1980 Đảng và nhà nước đã đề nghị khối COMECON, tức khối kinh tế cộng sản Liên xô và Đông Âu, khai thác quặng bô-xít Tây nguyên. Nhưng theo thư ông Giáp thì "khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung bộ".
Nguy hại môi sinhVì tính chất nguy hại sinh thái và cư dân quanh vùng khai thác bô-xít mà Cục bảo vệ môi trường quốc gia Trung quốc đã đóng cửa 100 mỏ bô-xít trên lãnh thổ Trung quốc từ năm 2004 đến 2008. Tại Ấn độ năm 2004 đã có một phong trào quần chúng lớn rộng nổi dậy biểu tình chống việc khai thác bô-xít tại bang Orissa trên diện tích 1000 hecta làm nguy hại 60.000 cư dân.Tại Việt Nam hiện nay, chỉ nói đến một cứ điểm Đắk Nông ở phía cực nam Tây nguyên hiện đang có 7 mỏ khai thác bô-xít, tất thấy ngay nguy cơ sa mạc hóa - "bùn đỏ hóa mầu xanh" trên 6000 quả đồi với hàng trăm con suối trên một diện tích 600.000 hecta, nơi cư ngụ 29 dân tộc ít người, chủ yếu là cư dân bản địa người M'Nông. Để khai thác 5,4 tỉ tấn quặng thô bô-xít ở Đắk Nông thì chất thải bùn đỏ sẽ phủ lấp hàng nghìn buôn làng : khi ta biết rằng để có 1 tấn nhôm cần khai thác 4 tấn quặng bô-xít và thải ra môi trường 3 tấn bùn đỏ !
I
Nguy cơ mất nước bắt đầu
Lần này không chỉ Bắc thuộc Một Nghìn Năm, mà là Ba Nghìn Năm hay lâu hơn nữa khi lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam.
Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
Lời kêu gọi khẩn thiếtNhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cùng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.
Báo động công luận thế giới
Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.
Bất tuân dân sự
Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.
Tất cả Bất Tuân Dân Sự - Biểu Tình Tại GiaSống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự : Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :
Yêu cầu 1: Nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theoCông Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS)trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.
Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương. .
Yêu cầu 2: Công bố hai bản hiệp ước biên giới2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồlàbộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
Yêu cầu 3: Triệu tập Đại Hội toàn dân chận đứng khai thác Bô Xít3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.
Tháng 5 là tháng Bất Tuân Dân Sự - Biểu Tình Tại GiaTháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dủng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.
Kính xin đồng bào tiếp tay phổ biến và hưởng ứngKính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.
Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
Lời kêu gọi khẩn thiếtNhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cùng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.
Báo động công luận thế giới
Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.
Bất tuân dân sự
Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.
Tất cả Bất Tuân Dân Sự - Biểu Tình Tại GiaSống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự : Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :
Yêu cầu 1: Nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theoCông Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS)trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.
Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương. .
Yêu cầu 2: Công bố hai bản hiệp ước biên giới2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồlàbộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
Yêu cầu 3: Triệu tập Đại Hội toàn dân chận đứng khai thác Bô Xít3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.
Tháng 5 là tháng Bất Tuân Dân Sự - Biểu Tình Tại GiaTháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dủng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.
Kính xin đồng bào tiếp tay phổ biến và hưởng ứngKính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.
Thanh Minh Thiền viện,
Saigon ngày 29.3.2009
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
LM PHAN VĂN LỢI TÂM SỰ VỚI LM NGUYỄN VĂN LÝ
Lm Phan Văn Lợi tâm sự voi Lm Nguyễn Văn Lý nhân kỷ niệm hai năm phiên tòa Ô nhục.
Huế ngày 25-03-2009
Anh Lý thân kính
Thế là Anh sắp bước vào năm tù thứ 17 của lần tù thứ 4! Còn hai bạn tù của Anh, Nguyễn Phong và Nguyễn Bình Thành, cũng bước sang năm thứ ba. Đối với Anh, nửa đời linh mục rồi còn gì!! Sao Anh lại “dại dột” thế? Khôn ngoan im lặng hay lịch sự biết điều, khiêm tốn xin xỏ hay âm thầm hợp tác, “chuyên chú tu hành” thay vì “hoạt động chính trị”, lấy nguyên tắc “được việc” thay vì “đúng việc” làm kim chỉ nam, Anh đã có thể sống thong dong nhàn nhã, xây dựng biết bao công trình, tổ chức biết bao lễ hội, xuất ngoại biết bao lượt lần để “làm sáng danh Chúa, cứu các linh hồn, tốt đời đẹp đạo”!?! Đàng này Anh lại cứ liên tục lên tiếng đấu tranh, bênh vực những thân phận đau khổ, để rồi liên tục chui vô nhà đá cho khổ cực tấm thân, phí cả đời trai trẻ!!
Có người từng nói là Anh và các bạn Anh trong Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền mắc khẩu nghiệp, gánh khẩu họa! Thầy Chí Thánh, Gioan Tẩy giả, Các Tông đồ và bao Ngôn sứ suốt dòng lịch sử Dân Chúa đã chẳng cùng số phận sao? Nếu Chúa Giêsu đừng có gọi lãnh đạo chính trị như bạo vương Hêrôđê là “con cáo già” (x. Lc 13,32), gọi lãnh đạo tôn giáo như các Biệt phái và Kinh sư là “lũ giả hình”, “loại mả tô vôi”, “hạng dẫn đường mù quáng”, “quân ngốn tài sản của các góa phụ” (x. Mt 23,13-27), đừng có lên tiếng khai mào sứ vụ kiểu khích động: “Thiên Chúa đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, người bị áp bức được tự do trả lại” (x. Lc 4,18), “Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính” (x. Mt 5,10)… Nếu Thánh Gioan Tẩy giả đừng có gọi phái Xa-đốc (hàng tư tế thỏa hiệp với quân xâm lược) là “nòi rắn độc” (x. Mt 3,7), đừng quở trách binh lính: “Chớ hà hiếp ai, không được tống tiền!” (x. Lc 3,14), đừng có cảnh cáo vua Hêrôđê: “Ngài đâu được phép lấy chị dâu làm vợ!” (x. Mt 14,4)... Nếu hai vị không mắc cái “bệnh ham nói”, “thói phê bình” những kẻ đang nắm quyền lực thì làm chi mà phải bị săn đuổi, chịu giam cầm và sống mới được 1/3 đời người đã phải bỏ mạng trên thập giá nhuốc nhơ hay dưới lưỡi gươm oan nghiệt? Nếu các ngôn sứ Cựu Ước đừng có lên án -với bao lời nảy lửa- những kẻ quyền thế quỵt lương (x. Gr 22,13; Ml 3,5), những tay giàu có gian lận (x. Am 8,5; Hs 12,8), những ông quan tòa vụ lợi (x. Mk 3,11; Is 1,23), những người lãnh đạo “chà đạp lên mặt kẻ nghèo khó” (x. Is 3,15)… thì làm chi mà phải bị cường quyền bách hại, giết chết, sống chưa mãn đời? Âu cũng là khẩu nghiệp! Mà Kinh Thánh có gọi các ngài là “làm chính trị” không nhỉ?
Anh đã hiểu rằng lời nhắc nhở của Chúa: “Hài nhi hỡi, con sẽ được gọi là ngôn sứ của Đấng Tối Cao” trong kinh sáng mà các linh mục và tu sĩ phải đọc mỗi ngày, thật thúc bách và đòi hỏi biết mấy! Anh đã hiểu rằng trong một xã hội mà hạng cầm quyền, đảng lãnh đạo chỉ biết bưng bít chân lý, chà đạp lẽ phải, tham nhũng bóc lột, áp bức bạo hành, công cụ hóa các thế lực tinh thần, thì vinh quang được làm chứng nhân, danh dự được làm ngôn sứ cho công lý, cho sự thật, cho Thiên Chúa đòi buộc phải ra khỏi thánh đường bình yên (dĩ nhiên không phải ra hẳn) để dấn thân vào trần thế hỗn loạn và can đảm trả giá. Có cuộc đời nào làm chiến sĩ cho phẩm giá của con người, cho quyền sống của thế nhân, cho tự do của tôn giáo, hay đơn giản là sống cho xứng phận người đứng thẳng, mà lại không lãnh sóng gió bão bùng, mà không gánh khổ đau bách hại?
Anh đã hiểu rằng hạng nghèo khó cần thương giúp hơn hết (như bổn phận của Giáo hội và của linh mục) không phải là hạng nghèo khó về của cải mà là hạng nghèo khó về nhân quyền. Nghèo về của cải chỉ khổ, nghèo về nhân quyền vừa khổ vừa nhục và còn kéo theo đủ thứ tai họa! Anh không chỉ bằng lòng với việc bác ái cứu trợ (vốn được bạo quyền hoan nghênh tán thưởng) mà còn tiến tới việc bác ái giải thoát (luôn bị cường lực cấm đoán cản ngăn) và cho đó là quan trọng hơn cả, khẩn thiết hơn cả, là cách giải quyết tận gốc vấn đề. Anh đã chẳng lẳng lặng xót thương, âm thầm cầu nguyện, kín đáo trợ giúp các nạn nhân của bất công, một đã dấn thân nhập cuộc, hiên ngang đứng cạnh nỗi khổ của đồng đạo, của đồng bào, của tôn giáo, của đất nước, và công khai lên tiếng, vạch mặt chỉ tên cái nguyên nhân sâu xa, cội nguồn đầu hết của mọi bất công bất hạnh : chủ nghĩa phi nhân, chính đảng chuyên quyền và chế độ toàn trị.
Xin cảm ơn Anh vì lời nói thẳng thắn và hành động can đảm, cái nhìn sâu sắc về xã hội và chiến lược đấu tranh đúng đắn (đồng thành lập Khối dân chủ bất bạo động 8406 chẳng hạn), cộng thêm tấm gương hy sinh trong tù ngục tháng năm dài của Anh, đã và đang dấy lên cả một phong trào đòi tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền trên Quê hương, đặc biệt kéo theo sự nhập cuộc ngày càng đông đảo của các đồng nghiệp linh mục. Nhất là khi vấn đề quyền con người đang mở rộng ra thành vấn đề quyền dân tộc với hiểm họa giang sơn Tổ quốc bị xâm lấn, an ninh Tổ quốc bị đe dọa, với viễn tượng nước mất, nhà tan, đạo tiêu tùng! Nếu các lãnh đạo tinh thần không lên tiếng lúc dầu sôi lửa bỏng này, lúc mà giáo dân và lương dân đang mong đợi họ, cầu khẩn họ, thì khi đất nước trở lại thanh bình, sạch bóng Cộng sản, thoát đại nạn ngoại xâm, ai mà còn thèm nghe họ nữa, như kinh nghiệm thấm thía hiện giờ bên Đông Âu của các lãnh đạo tinh thần đã lặng câm như hến hay đã thỏa hiệp với quỷ!
Xin cảm ơn Anh đã làm người khởi xướng mạnh mẽ, bắn phát súng lệnh (cụ thể và đặc biệt qua 9 Lời Kêu gọi từ tháng 12-2000 đến tháng 02-2001) cho đại cuộc đòi lại các tài sản vật chất và tinh thần mà các tập thể lẫn cá nhân, dân sự lẫn tôn giáo đang tiến hành ngày càng quyết liệt. Những cuộc đòi đất đai của các dân oan và của các giáo hội, đòi công bằng của các công nhân, đòi độc lập của các tôn giáo, đòi nhân quyền của các nhà dân chủ, đòi tham gia việc nước và đòi tài sản tổ tiên của mọi tấm lòng ái quốc hôm nay đã chẳng cảm hứng phần lớn từ những Lời Kêu gọi ấy sao? đã chẳng được nhắc nhở phần lớn trong những Lời Kêu gọi ấy sao? Nhưng rồi, chính vì những lời khởi xướng ấy mà Anh đã phải gánh chịu bao đau khổ và tù ngục. Phải chăng đó là nỗi bất hạnh của người thức dậy sớm? Đau khổ ấy đến từ bên ngoài cũng như tự bên trong.
Mới đây thôi, khi được hỏi vì sao không lên tiếng bênh vực cho Anh, một trong những người có trách nhiệm về Anh đã trả lời (đại ý): “Vì cha Lý đã chẳng giữ tư cách mình là một linh mục trước tòa án. Sao lại có những hành động như lấy chân đá vành móng ngựa, sau đó lại nắm tay cao thẳng lên (sic) hô to “Đả đảo đảng Cộng sản”! Như thế có khác chi một giáo dân la hét trong nhà thờ!”. Trời ơi, cái phiên tòa đó (và chuỗi ngày thẩm vấn các bị can trước đó), ai chẳng biết là đầy gian manh, cưỡng bức, vô luật, không trạng sư, không chứng nhân, không thân thuộc, không quyền tự vệ, lại còn bịt miệng và chận họng các bị cáo, nghĩa là phiên tòa của một bọn cướp, trong đó chẳng tồn tại công lý, chẳng tồn tại pháp luật, hết sức bất công, thô bỉ và quái đản, rất đáng bị đả đảo (y như những sự việc cũng quái đản, thô bỉ và bất công không kém quanh vụ sơ thẩm và phúc thẩm 8 giáo dân Thái Hà), thế mà lại đem so sánh nó với chốn thánh đường tôn nghiêm? Nói thế thì khác gì tay chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã kết án các Linh mục Thái Hà trong thư gửi Hội đồng Giám mục VN và Giám tỉnh Dòng CCT ngày 12-12-2008: “Trước và trong quá trình diễn ra phiên tòa, một số giáo sĩ tại nhà thờ Thái Hà… đã có những lời nói, việc làm cổ súy, khuyến khích các hành vi vi phạm Pháp luật... đã có thái độ và lời nói phỉ báng Pháp luật và Nhà nước Việt Nam… đã nói phiên tòa là “phiên tòa của ma quỷ và bóng tối”… Các linh mục ấy đáng bị điều chuyển khỏi địa phận thành phố Hà Nội”. Phải chăng người ta muốn biến hai câu thơ nổi tiếng của Anh: “Tòa án Cộng sản Việt Nam: trò hề bỉ ổi ngàn năm chê cười” thành “Tòa án Cộng sản Việt Nam: thánh đường công lý ngàn năm rạng ngời” ? Phải chăng chỉ vì dám chân đá, miệng hô đả đảo cái nền pháp chế khốn nạn như thế (cũng như lũ người đẻ ra nó) mà những gì Anh đã làm và đã chịu vì Quê hương và Đạo giáo trở thành xấu xa, tội lỗi, không thể can thiệp và bênh vực được?
May thay, bên cạnh thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm đến gây ngỡ ngàng đó, đa số đồng bào quốc nội lẫn hải ngoại và cộng đồng dân chủ thế giới đều bênh vực Anh, ủng hộ Anh, tiếp bước Anh… Bằng chứng là cuốn “Vụ án Lm Nguyễn Văn Lý và lương tâm công giáo” (2007) và cuốn “Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, cuộc đời đấu tranh cho tôn giáo và dân chủ nhân quyền” (2008) đã được phổ biến rộng rãi. Bằng chứng là tấm hình Anh bị bạo quyền bịt miệng trong phiên tòa ô nhục ngày 30-03-2007 đã bay khắp thế giới, in ra hàng triệu bản, hiện diện nơi đâu mà dân Việt yêu nước biểu tình, triển lãm, hội thảo… Mười ba panô (billboard) khổng lồ về cảnh độc đáo đó đang được dựng lên ở Hoa Kỳ và Úc châu. Tấm hình này còn được tặng riêng cho chính giới và báo giới nhiều nước cũng như dí vào mặt đám lãnh đạo và cán bộ VC xuất ngoại… Nó là biểu tượng cho Việt Nam hôm nay, là lá bùa trù yểm Việt cộng gian đảng, là lời hiệu triệu cho toàn thể Đồng bào… Bằng chứng là từ nhiều năm nay, bao tổ chức đoàn thể trên thế giới (Việt Nam lẫn ngoại quốc) đều liên tục đòi trả tự do và danh dự cho Anh lẫn các chiến sĩ dân chủ đang bị tù đày… Bằng chứng là tổ chức quần chúng đấu tranh và cơ quan ngôn luận tranh đấu mà Anh đồng thành lập, tức Khối 8406 và tờ Tự do Ngôn luận, vẫn lừng lững tiến trên con đường trực diện với Cộng sản, bất chấp mọi đánh phá, trả thù hèn hạ và nham hiểm của họ.
Anh Lý, Anh Phong, Anh Thành và Quý Chiến sĩ dân chủ, Tù nhân lương tâm, Anh hùng Dân tộc thương kính, xin hãy an lòng! Hy sinh của bản thân và gia đình Quý Vị đang là dầu giữ mãi ngọn đuốc đấu tranh và là lực thúc đẩy toàn thể dân tộc bịt miệng vĩnh viễn và tống cổ muôn đời cái ác đảng độc tài toàn trị, buôn dân bán nước một ngày nào đó gần đây thôi! Thiên Chúa và Dân tộc đang nhìn Anh và các Vị như những người con yêu quý!
Viết tại Huế ngày 25-03-2009,
nhân kỷ niệm hai năm phiên tòa ô nhục!
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
Nhân kỷ niệm 2 năm ngày Linh mục Nguyễn Văn Lý và các chiến hữu bị CS kết án trong một phiên tòa quái đản và ô nhục tại Huế (30-03-2007), xin kính gởi đến Đồng bào VN Lời tâm sự của Linh mục Phan Văn Lợi ngỏ với Linh mục Nguyễn Văn Lý. Xin vui lòng phổ biến rộng rãi. Chúng tôi chân thành cảm ơn.
Tâm sự cùng Linh mục Nguyễn Văn Lý
nhân kỷ niệm hai năm phiên tòa ô nhục tại Hue^'
Tâm sự cùng Linh mục Nguyễn Văn Lý
nhân kỷ niệm hai năm phiên tòa ô nhục tại Hue^'
Huế ngày 25-03-2009
Anh Lý thân kính
Thế là Anh sắp bước vào năm tù thứ 17 của lần tù thứ 4! Còn hai bạn tù của Anh, Nguyễn Phong và Nguyễn Bình Thành, cũng bước sang năm thứ ba. Đối với Anh, nửa đời linh mục rồi còn gì!! Sao Anh lại “dại dột” thế? Khôn ngoan im lặng hay lịch sự biết điều, khiêm tốn xin xỏ hay âm thầm hợp tác, “chuyên chú tu hành” thay vì “hoạt động chính trị”, lấy nguyên tắc “được việc” thay vì “đúng việc” làm kim chỉ nam, Anh đã có thể sống thong dong nhàn nhã, xây dựng biết bao công trình, tổ chức biết bao lễ hội, xuất ngoại biết bao lượt lần để “làm sáng danh Chúa, cứu các linh hồn, tốt đời đẹp đạo”!?! Đàng này Anh lại cứ liên tục lên tiếng đấu tranh, bênh vực những thân phận đau khổ, để rồi liên tục chui vô nhà đá cho khổ cực tấm thân, phí cả đời trai trẻ!!
Có người từng nói là Anh và các bạn Anh trong Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền mắc khẩu nghiệp, gánh khẩu họa! Thầy Chí Thánh, Gioan Tẩy giả, Các Tông đồ và bao Ngôn sứ suốt dòng lịch sử Dân Chúa đã chẳng cùng số phận sao? Nếu Chúa Giêsu đừng có gọi lãnh đạo chính trị như bạo vương Hêrôđê là “con cáo già” (x. Lc 13,32), gọi lãnh đạo tôn giáo như các Biệt phái và Kinh sư là “lũ giả hình”, “loại mả tô vôi”, “hạng dẫn đường mù quáng”, “quân ngốn tài sản của các góa phụ” (x. Mt 23,13-27), đừng có lên tiếng khai mào sứ vụ kiểu khích động: “Thiên Chúa đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, người bị áp bức được tự do trả lại” (x. Lc 4,18), “Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính” (x. Mt 5,10)… Nếu Thánh Gioan Tẩy giả đừng có gọi phái Xa-đốc (hàng tư tế thỏa hiệp với quân xâm lược) là “nòi rắn độc” (x. Mt 3,7), đừng quở trách binh lính: “Chớ hà hiếp ai, không được tống tiền!” (x. Lc 3,14), đừng có cảnh cáo vua Hêrôđê: “Ngài đâu được phép lấy chị dâu làm vợ!” (x. Mt 14,4)... Nếu hai vị không mắc cái “bệnh ham nói”, “thói phê bình” những kẻ đang nắm quyền lực thì làm chi mà phải bị săn đuổi, chịu giam cầm và sống mới được 1/3 đời người đã phải bỏ mạng trên thập giá nhuốc nhơ hay dưới lưỡi gươm oan nghiệt? Nếu các ngôn sứ Cựu Ước đừng có lên án -với bao lời nảy lửa- những kẻ quyền thế quỵt lương (x. Gr 22,13; Ml 3,5), những tay giàu có gian lận (x. Am 8,5; Hs 12,8), những ông quan tòa vụ lợi (x. Mk 3,11; Is 1,23), những người lãnh đạo “chà đạp lên mặt kẻ nghèo khó” (x. Is 3,15)… thì làm chi mà phải bị cường quyền bách hại, giết chết, sống chưa mãn đời? Âu cũng là khẩu nghiệp! Mà Kinh Thánh có gọi các ngài là “làm chính trị” không nhỉ?
Anh đã hiểu rằng lời nhắc nhở của Chúa: “Hài nhi hỡi, con sẽ được gọi là ngôn sứ của Đấng Tối Cao” trong kinh sáng mà các linh mục và tu sĩ phải đọc mỗi ngày, thật thúc bách và đòi hỏi biết mấy! Anh đã hiểu rằng trong một xã hội mà hạng cầm quyền, đảng lãnh đạo chỉ biết bưng bít chân lý, chà đạp lẽ phải, tham nhũng bóc lột, áp bức bạo hành, công cụ hóa các thế lực tinh thần, thì vinh quang được làm chứng nhân, danh dự được làm ngôn sứ cho công lý, cho sự thật, cho Thiên Chúa đòi buộc phải ra khỏi thánh đường bình yên (dĩ nhiên không phải ra hẳn) để dấn thân vào trần thế hỗn loạn và can đảm trả giá. Có cuộc đời nào làm chiến sĩ cho phẩm giá của con người, cho quyền sống của thế nhân, cho tự do của tôn giáo, hay đơn giản là sống cho xứng phận người đứng thẳng, mà lại không lãnh sóng gió bão bùng, mà không gánh khổ đau bách hại?
Anh đã hiểu rằng hạng nghèo khó cần thương giúp hơn hết (như bổn phận của Giáo hội và của linh mục) không phải là hạng nghèo khó về của cải mà là hạng nghèo khó về nhân quyền. Nghèo về của cải chỉ khổ, nghèo về nhân quyền vừa khổ vừa nhục và còn kéo theo đủ thứ tai họa! Anh không chỉ bằng lòng với việc bác ái cứu trợ (vốn được bạo quyền hoan nghênh tán thưởng) mà còn tiến tới việc bác ái giải thoát (luôn bị cường lực cấm đoán cản ngăn) và cho đó là quan trọng hơn cả, khẩn thiết hơn cả, là cách giải quyết tận gốc vấn đề. Anh đã chẳng lẳng lặng xót thương, âm thầm cầu nguyện, kín đáo trợ giúp các nạn nhân của bất công, một đã dấn thân nhập cuộc, hiên ngang đứng cạnh nỗi khổ của đồng đạo, của đồng bào, của tôn giáo, của đất nước, và công khai lên tiếng, vạch mặt chỉ tên cái nguyên nhân sâu xa, cội nguồn đầu hết của mọi bất công bất hạnh : chủ nghĩa phi nhân, chính đảng chuyên quyền và chế độ toàn trị.
Xin cảm ơn Anh vì lời nói thẳng thắn và hành động can đảm, cái nhìn sâu sắc về xã hội và chiến lược đấu tranh đúng đắn (đồng thành lập Khối dân chủ bất bạo động 8406 chẳng hạn), cộng thêm tấm gương hy sinh trong tù ngục tháng năm dài của Anh, đã và đang dấy lên cả một phong trào đòi tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền trên Quê hương, đặc biệt kéo theo sự nhập cuộc ngày càng đông đảo của các đồng nghiệp linh mục. Nhất là khi vấn đề quyền con người đang mở rộng ra thành vấn đề quyền dân tộc với hiểm họa giang sơn Tổ quốc bị xâm lấn, an ninh Tổ quốc bị đe dọa, với viễn tượng nước mất, nhà tan, đạo tiêu tùng! Nếu các lãnh đạo tinh thần không lên tiếng lúc dầu sôi lửa bỏng này, lúc mà giáo dân và lương dân đang mong đợi họ, cầu khẩn họ, thì khi đất nước trở lại thanh bình, sạch bóng Cộng sản, thoát đại nạn ngoại xâm, ai mà còn thèm nghe họ nữa, như kinh nghiệm thấm thía hiện giờ bên Đông Âu của các lãnh đạo tinh thần đã lặng câm như hến hay đã thỏa hiệp với quỷ!
Xin cảm ơn Anh đã làm người khởi xướng mạnh mẽ, bắn phát súng lệnh (cụ thể và đặc biệt qua 9 Lời Kêu gọi từ tháng 12-2000 đến tháng 02-2001) cho đại cuộc đòi lại các tài sản vật chất và tinh thần mà các tập thể lẫn cá nhân, dân sự lẫn tôn giáo đang tiến hành ngày càng quyết liệt. Những cuộc đòi đất đai của các dân oan và của các giáo hội, đòi công bằng của các công nhân, đòi độc lập của các tôn giáo, đòi nhân quyền của các nhà dân chủ, đòi tham gia việc nước và đòi tài sản tổ tiên của mọi tấm lòng ái quốc hôm nay đã chẳng cảm hứng phần lớn từ những Lời Kêu gọi ấy sao? đã chẳng được nhắc nhở phần lớn trong những Lời Kêu gọi ấy sao? Nhưng rồi, chính vì những lời khởi xướng ấy mà Anh đã phải gánh chịu bao đau khổ và tù ngục. Phải chăng đó là nỗi bất hạnh của người thức dậy sớm? Đau khổ ấy đến từ bên ngoài cũng như tự bên trong.
Mới đây thôi, khi được hỏi vì sao không lên tiếng bênh vực cho Anh, một trong những người có trách nhiệm về Anh đã trả lời (đại ý): “Vì cha Lý đã chẳng giữ tư cách mình là một linh mục trước tòa án. Sao lại có những hành động như lấy chân đá vành móng ngựa, sau đó lại nắm tay cao thẳng lên (sic) hô to “Đả đảo đảng Cộng sản”! Như thế có khác chi một giáo dân la hét trong nhà thờ!”. Trời ơi, cái phiên tòa đó (và chuỗi ngày thẩm vấn các bị can trước đó), ai chẳng biết là đầy gian manh, cưỡng bức, vô luật, không trạng sư, không chứng nhân, không thân thuộc, không quyền tự vệ, lại còn bịt miệng và chận họng các bị cáo, nghĩa là phiên tòa của một bọn cướp, trong đó chẳng tồn tại công lý, chẳng tồn tại pháp luật, hết sức bất công, thô bỉ và quái đản, rất đáng bị đả đảo (y như những sự việc cũng quái đản, thô bỉ và bất công không kém quanh vụ sơ thẩm và phúc thẩm 8 giáo dân Thái Hà), thế mà lại đem so sánh nó với chốn thánh đường tôn nghiêm? Nói thế thì khác gì tay chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã kết án các Linh mục Thái Hà trong thư gửi Hội đồng Giám mục VN và Giám tỉnh Dòng CCT ngày 12-12-2008: “Trước và trong quá trình diễn ra phiên tòa, một số giáo sĩ tại nhà thờ Thái Hà… đã có những lời nói, việc làm cổ súy, khuyến khích các hành vi vi phạm Pháp luật... đã có thái độ và lời nói phỉ báng Pháp luật và Nhà nước Việt Nam… đã nói phiên tòa là “phiên tòa của ma quỷ và bóng tối”… Các linh mục ấy đáng bị điều chuyển khỏi địa phận thành phố Hà Nội”. Phải chăng người ta muốn biến hai câu thơ nổi tiếng của Anh: “Tòa án Cộng sản Việt Nam: trò hề bỉ ổi ngàn năm chê cười” thành “Tòa án Cộng sản Việt Nam: thánh đường công lý ngàn năm rạng ngời” ? Phải chăng chỉ vì dám chân đá, miệng hô đả đảo cái nền pháp chế khốn nạn như thế (cũng như lũ người đẻ ra nó) mà những gì Anh đã làm và đã chịu vì Quê hương và Đạo giáo trở thành xấu xa, tội lỗi, không thể can thiệp và bênh vực được?
May thay, bên cạnh thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm đến gây ngỡ ngàng đó, đa số đồng bào quốc nội lẫn hải ngoại và cộng đồng dân chủ thế giới đều bênh vực Anh, ủng hộ Anh, tiếp bước Anh… Bằng chứng là cuốn “Vụ án Lm Nguyễn Văn Lý và lương tâm công giáo” (2007) và cuốn “Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, cuộc đời đấu tranh cho tôn giáo và dân chủ nhân quyền” (2008) đã được phổ biến rộng rãi. Bằng chứng là tấm hình Anh bị bạo quyền bịt miệng trong phiên tòa ô nhục ngày 30-03-2007 đã bay khắp thế giới, in ra hàng triệu bản, hiện diện nơi đâu mà dân Việt yêu nước biểu tình, triển lãm, hội thảo… Mười ba panô (billboard) khổng lồ về cảnh độc đáo đó đang được dựng lên ở Hoa Kỳ và Úc châu. Tấm hình này còn được tặng riêng cho chính giới và báo giới nhiều nước cũng như dí vào mặt đám lãnh đạo và cán bộ VC xuất ngoại… Nó là biểu tượng cho Việt Nam hôm nay, là lá bùa trù yểm Việt cộng gian đảng, là lời hiệu triệu cho toàn thể Đồng bào… Bằng chứng là từ nhiều năm nay, bao tổ chức đoàn thể trên thế giới (Việt Nam lẫn ngoại quốc) đều liên tục đòi trả tự do và danh dự cho Anh lẫn các chiến sĩ dân chủ đang bị tù đày… Bằng chứng là tổ chức quần chúng đấu tranh và cơ quan ngôn luận tranh đấu mà Anh đồng thành lập, tức Khối 8406 và tờ Tự do Ngôn luận, vẫn lừng lững tiến trên con đường trực diện với Cộng sản, bất chấp mọi đánh phá, trả thù hèn hạ và nham hiểm của họ.
Anh Lý, Anh Phong, Anh Thành và Quý Chiến sĩ dân chủ, Tù nhân lương tâm, Anh hùng Dân tộc thương kính, xin hãy an lòng! Hy sinh của bản thân và gia đình Quý Vị đang là dầu giữ mãi ngọn đuốc đấu tranh và là lực thúc đẩy toàn thể dân tộc bịt miệng vĩnh viễn và tống cổ muôn đời cái ác đảng độc tài toàn trị, buôn dân bán nước một ngày nào đó gần đây thôi! Thiên Chúa và Dân tộc đang nhìn Anh và các Vị như những người con yêu quý!
Viết tại Huế ngày 25-03-2009,
nhân kỷ niệm hai năm phiên tòa ô nhục!
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
Thứ Năm, 26 tháng 3, 2009
Tôi viết về HỒ CHÍ MINH
"Các "cháu ngoan bác Hồ" để dành bác ngoáy
Ghi chú:
[1]- Trụ sở hội liên hiệp văn hoá nghệ thuật, nhà xuất bản tác phẩm mới hội nhà văn Hà Nội và hội nhà Văn Việt Nam.
[2]. Nhại lời bài: Mặt trời bé thơ của Trần Tiến.
Tôi viết về Hồ Chí Minh
Trần Khải Thanh Thủy
Trần Khải Thanh Thủy
Như mọi đứa trẻ ở Việt Nam khác, tôi sinh ra chỉ biết có bác Hồ, lên 2 đã nghe các bài hát véo von trên đài: Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng, Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên Việt Nam, rồi: Bác chúng em dáng cao cao người thanh thanh, bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài. Bác chúng em thề cứu nước trả thù nhà. Hồ Chí Minh bác Hồ Chí Minh sống muôn năm... Lại: Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ v.v. Nghiã là có cả một phong trào sáng tác các bài hát về bác, để bọn trẻ chúng tôi tha hồ được nhồi sọ, tha hồ ê a hát theo...
Lên 5, tôi theo gia đình đi sơ tán, giữa vùng quê nghèo đói, người dân coi giấc ngủ bữa ăn, củ khoai, cây lúa quan trọng hơn việc nhồi nhét chữ nghiã trong đầu, tôi nhanh chóng nổi bật lên chinh phục bọn trẻ làng; vừa là con cán bộ sơ tán, đi học có áo trắng, quần lửng để mặc, trong khi bọn trẻ quê đi học còn phải mặc áo rách, hở khuy, tòi ra cả một đống bụng màu nâu xỉn. Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đủ để tôi được các thầy cô cảm tình trở thành cháu ngoan Bác Hồ, tôi lấy làm kiêu hãnh về điều ấy lắm. Khi trở lại Hà Nội, tuy danh hiệu cháu ngoan không còn vì có vô vàn đứa trẻ khác giỏi và ngoan ngoãn hơn tôi, nhưng hình ảnh bác vẫn còn in dấu mãi trong tôi. Mở mắt là nghe tiếng thơ phát trên đài: Nhà em treo ảnh bác hồ,Bên trên là một lá cờ đỏ tươiNgày ngày bác mỉm miệng cườiBác nhìn các cháu vui chơi trong nhà... Mười năm học phổ thông, tôi bị đúc khuôn nhồi sọ bởi đủ thứ tư tưởng nội quy, quan điểm, lập trường, đúng như lời nhận định của nhà bác học Tôn Thất Tùng: Trẻ em Việt Nam là một sinh vật ngủ đêm quá ngắn còn ban ngày phải đối phó với đủ mọi quy định nghiệt ngã của nhà trường. Nào nội quy, quy chế, nào thi cử nặng nề, rồi chương trình dài lê thê. Suốt 15 năm học (từ vỡ lòng đến khi tốt nghiệp Đại học), chúng tôi chỉ biết có "Học, học nữa, học mãi" theo lời dạy của Lê Nin. Không ít đứa trẻ trong số chúng tôi học đến mức... đau tim, hộc máu chỉ vì muốn đua chen một chỗ đứng trên giải đường đại học. 15 năm học với tôi như một cực hình tra tấn, trong khi nhà nước cho tiêu chuẩn mỗi tháng 13 kg gạo, một lạng thịt, dăm bìa đậu, mà chúng tôi phải đạp xe 8-10 cây số tới trường xa lơ lắc, người vêu vao như những đon mạ còi không lớn nổi vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều đứa trong bọn tôi nói vui nhưng cũng đầy ngậm ngùi cay đắng: Hình như nhà nước càng hạn chế bán gạo, tớ càng ăn khỏe. Ba bát cơm một bữa chả là cái quái gì, mà ăn hơn thì bố mẹ lại phải nhìn nhau, nhịn ăn để nhường phần cho. Thật không biết sau khi ra trường có nên ông nên bà gì không mà nhìn ánh mắt mẹ buồn buồn trong bữa ăn, tế nhị nhắc các em trong nhà bớt ăn thức ăn đi một chút vì anh nó sắp thi học kỳ là thấy thương quá. Không biết sau này phải trả nghiã bố mẹ ra sao? Tốt nghiệp ra trường với số điểm ưu, tôi những tưởng sẽ được trọng dụng, ai ngờ nhận quyết định đi Lai Châu, mẹ ôm lấy tôi, nước mắt lã chã: ở nhà thôi con ạ, lên trên ấy nước độc, rừng thiêng, không sống nổi đâu. Nhà nghèo 4 năm trời tôi vẫn không xin được việc, rồi không thể ăn bám bố mẹ trong khi túi tiền bị Đảng "bao" nhiều "cấp" ít, tôi đành phải trốn mẹ ra đi. Mẹ tôi khóc còn hơn ngày ông ngoại bị đội trưởng đội cải cách đến bắt, phải rạch ruột bằng mắt kính bẻ đôi để tử tự. Lên rừng đang thời điểm 1986, cả nước ngắc ngoải trong cơn đói, tầng lớp trí thức chúng tôi được Đảng ưu tiên chỉ đạo tự túc lương thực 3 tháng. Hết ba tháng này lại ba tháng khác, quả thật tôi không hiểu làm sao mình qua được những ngày dài đói lả ấy. Câu thơ của nhà thơ Duy Phi cứ khoan sâu trong óc: Đời ông lặp lại đời chaĐời con cháu nối mãi đời cụ kỵQuý khoai sắn hơn là sâm với quếRau muống ơi, xin hãy muộn mùa hoa. Anh chủ nhà, quê Ninh Bình, lên khai hoang kinh tế mới, nơi chúng tôi thường xuyên qua lại để trò chuyện, giải thích: - Mong rau muống muộn mùa hoa để làm bánh đấy các cô chú ạ. Có lẽ chúng tôi sống được là nhờ bà con - những phụ huynh học sinh gốc kinh lên nông trường theo tiếng gọi của Đảng, đùm bọc bằng tất cả tấm lòng trân quý nhất. Mở cửa ra, thấy nặng tay, cố ảy, chợt có vài trái bí mán lăn long lóc xuống tận chân đồi. Tử tế hơn là cân sắn, cân khoai, nải chuối, quả đu đủ rừng. Học bác sĩ Tôn Thất Tùng trong những ngày theo kháng chiến, có ngày tôi phải ăn 20-30 quả chuối thay cơm. Đói cồn cào xót ruột đến mức nhìn thấy chuối là sợ nhưng nhà nước đã cố tình cắt cơm chúng tôi thì biết làm thế nào? Chả lẽ lại vác cái dạ dày thõng thẹo hình dấu phẩy lên sở giáo dục mà bảo: Chúng tôi đói lắm, trả lương, cấp gạo cho chúng tôi ăn đi, đừng bắt tự túc lương thực mãi thế? Vì kế hoạch trăm năm chúng tôi phải lên rừng trồng người rồi, đừng bắt chúng tôi phải vì kế hoạch 1 năm trồng lúa nữa. Bao nhiêu thầy cô giáo chúng tôi đói quá phải bỏ qua cả "lợi ích một đêm" là... làm tình rồi. Trước ba đêm không gặp nhau một lần thì khí dồn lên não, bây giờ ba tháng tự túc lương thực, đói cơm, rét cật làm sao chúng tôi "dậm dật" được? Trong tôi lúc ấy không hề có khái niệm nổi loạn, đêm đêm chong mắt chấm bài cho học trò, rồi vẩn vơ nghĩ về nhân tình thế thái. Sáng ra nghe tiếng ru của anh chủ nhà vọng sang mà thêm nẫu ruột: Con ơi con ngủ cho lâu,Mẹ mày đi chợ cơm đâu mà đòiĐói no thì đã tỏ rồiCha đành lấp lửng những lời ru suông. Thằng bé con út của anh chị mới được hai tháng mà bố mẹ đã lăn lê ngoài đồng bãi nương rẫy kiếm ăn. Thức ăn duy nhất là nước đường loãng đựng trong chai thay sữa giao cho bà nội cứ mút chùn chụt. Cả ngày chỉ được ăn thêm 2 đĩa bột muối. Không hiểu sao nó vẫn cứ lớn lên được? Buồn, đói, chả còn cách nào giải khuây, trong khi hội bạn lao vào chơi "tú lơ khơ" giết thời gian thì tôi lao vào những mê cung rắc rối của ngôn từ. Không ngờ những vần thơ đầu tiên về Đảng cộng Sản thân yêu của tôi lại là những vần thơ tiên đoán về thời thế: Nhầm lẫn rồi hỡi bác kính yêuChủ nghĩa xã hội đang trên đường tắt lụiGiữa đất nước của Lê nin vĩ đạiCách mạng Nga làm Lịch sử thụt lùiThế kỷ nghèo sinh sản bác vĩ nhânBày con cháu gắng gánh tròn hậu quảLà ngư dân bác chỉ lo được thếĐất nước đói nghèo nhờ di chúc thiêng liêng. Bài thơ dài 11 khổ, giữa tuổi đời 29, tưởng tràn căng sức sống mà lại nặng trĩu những âu lo. Lúi húi chép lại thành 5, 7 bản để tặng cho những người thân yêu nhất không ngờ, đáp lại thái độ chân tình của tôi họ xua tôi như đuổi tà:- Thôi thôi, tôi không nghe cái thứ thơ chính trị, chính em ấy đâu. Bạn không định biến tôi thành thằng phản động chứ? Trong khi bao bài thơ trữ tình trước đó, hầu như bài nào tôi cũng được khen, có chị còn nghiện thơ của tôi, mượn về nhà cho con cái chép lại vào sổ tay. Bây giờ nó nằm trong tình trạng "im lặng đáng sợ" với ai cũng chỉ có một thái độ duy nhất "không biết, không nghe, không thấy."- Cái gì phải đến đã đến, 3 năm sau toàn bộ hệ thống Đông Âu sụp đổ. Điều mà tôi dự đoán trong thơ đã hoàn toàn linh nghiệm. Bạn bè bắt đầu nhìn tôi bằng một con mắt khác, dè dặt hơn, thận trọng hơn, như thể tôi là một kẻ nổi loạn thực sự và nếu chơi với tôi sẽ có ngày mất đoàn, mất Đảng như chơi. Năm 1994 tôi mới được về Hà Nội lo chuyện lập gia đình. Đám cưới của hai trí thức nghèo cùng làm nghề gõ đầu trẻ chỉ toàn ảnh đen trắng. Khi hạch toán, toàn bộ số tiền mừng vừa khoẳn các khoản thuê. Cho dù phải ngửa tay xin mẹ tiền mua xe đạp nhưng tất nhiên tôi vui lắm, rốt cục tôi cũng biết thế nào nghiã vợ tình chồng, là áo đơn, áo kép không bằng da nọ nép da kia, là vợ chồng hoà thuận là tiên trên trần (Ban ngày) còn ban đêm ắt hẳn phải thành "tiên ở trần" rồi. Sự nghèo đói cứ lẽo đẽo theo chân chúng tôi từng bước, thay vì gõ đầu trẻ chúng tôi bắt đầu gõ vào đầu nhau chan chát (như chó đốm với mèo khoang). Vì đồng lương chết đói không thể nào bôi đủ cho ba người từ đầu đến cuối tháng. Trong khi còn mẹ già, em dại. Quả là kiếp trí thức trong thời đại Hồ Chí Minh - nơi thiên đường xã hội chủ nghĩa do bác du nhập từ Nga về khổ hơn kiếp lợn, kiếp chó. Suốt thời sinh viên và thời lên rừng khai sáng văn minh cho đồng bào dân tộc, cho đến tận lúc này chúng tôi vẫn bị Đảng bỏ quên. Không "đào tận gốc trốc tận rễ" như khẩu hiệu năm 1930, 1931 là còn may chán. Nhờ thừa hửơng hệ gien của dòng họ: "Trứng rồng lại nở ra rồng" tôi được chuyển nghề, từ gõ đầu trẻ sang gõ đầu mình. Rồi thường xuyên có mặt trong đội ngũ viết thuê cho các nhà xuất bản. Nhờ vinh dự đặc biệt này, mà tôi thường xuyên được tiếp xúc với các nhà văn nhà báo lão thành, những cây đa cây đề, bậc tiên chỉ trong làng báo và làng văn xã hội chủ nghĩa. Tuổi già là kho báu. Tiếp cận với họ tôi thực sự được tắm trong suối nguồn hào phóng của tri thức, trong đó có cả đề tài về bác. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy họ có những nhận định táo bạo về vị cha già dân tộc, chẳng hề tôn kính chút nào như nhà nước và Đảng đã đầu độc họ. Không hề sợ phạm huý, giữa những người cầm bút với nhau. Họ bộc lộ thẳng thắn: "xì ông cụ nhà mình toàn đạo trích, giỏi giang cái đếch gì". Để chứng minh, họ lôi ra tràng giang đại hải những tiếng Nôm tiếng Hán, tôi nghe mà ù cả tai, rồi người khác tiếp tục khẳng định: Cả tập "Ngục trung nhật ký" có phải của cụ đếch đâu, trình độ cụ biết chó gì mà đòi làm thơ chữ Hán, chẳng qua cụ ăn cắp của người khác thôi, điều này thì có ông Từ Mục hay Hữu Mục gì đó ở Hải Ngoại chứng minh rồi... Và: Sao cái lớp trẻ dễ tin thế nhỉ, người như cụ Hồ mà giản dị, độc thân sao được? Rồi: Thằng bé Trung, con ông cụ không biết giờ này sao rồi. Đảng mình ác thật... Những lời tiên tri ấy lập tức găm sâu vào đầu óc tôi như rêu xanh bám chặt vào tảng đá.Suốt cả đêm tôi lúi húi chép lại từng lời từng chữ vào trang sổ của mình, sáng ra có điều gì không rõ lại phải làm như vô tình hỏi lại để tăng tính xác thực cho tư liệu... Trước đó qua số bạn bè cùng dạy, tôi may mắn gặp nhà viết chèo Tào Mạt, nổi tiếng với "bài ca giữ nước", sau khi mối quan hệ trở nên thân mật, ông bộc lộ: Tôi được trung ương giao cho viết một vở chèo về bác, thú thật lúc đầu tôi thấy vinh dự lắm liền vào ngay thư viện ôm một đống sách về để nghiềm ngẫm, vào tận quê ông cụ để lấy thêm tư liệu, đọc cả sách nước ngoài ca ngợi cụ, rồi để cả năm trời kiểm chứng, cuối cùng phải bỏ, vì cụ Hồ là người người hoàn toàn không tin được, đầy gian giảo, xảo quyệt, khác hẳn với những điều bịa đặt trong sách. Bây giờ để có tác phẩm thay thế, tôi phải chuyển sang viết về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tôi ngỡ ngàng nhìn ông như nhìn một tên nghịch tặc, nhưng tôi tin trong ông phải có ẩn ức sâu sa lắm mới nói được những lời nguy hiểm chết người như thế. Không bao lâu sau tôi nghe tin ông bị người của Đảng rình bắt tại khu vực 51 Trần Hưng Đạo, 65 phố Nguyễn Du, 9 Nguyễn Đình Chiểu, 19 Hàng Buồm [1] những nơi ông thường xuyên lui tới để gặp gỡ anh chị em trong giới "tối" tác. Cũng may bà Trần thị Bát, một người đàn bà vô cùng quê mùa nhưng lại rất "tỉnh đòn" trong những việc bắt bớ, rình rập này đã lăn xả vào giữ chân chồng suốt một thời gian dài không cho ông ra Hà Nội, nên vụ vây bắt không thành. Sau đó không bao lâu ông bị bệnh và chết, nhưng ấn tượng từ câu nói của ông về bác Hồ làm tôi không thể nào quên. Tết 2003 tôi đến nhà bác Chương Thâu, người bỏ tiền của sang Nhật, tìm tư liệu để viết 14 tập về nhà yêu nước Phan Bội Châu. Ông không nói lộ ra ngoài nhưng đọc trong mắt ông, tôi biết ông chẳng ưa gì người cha già của dân tộc mình. Ông bảo: Nếu cho phép treo ảnh lãnh tụ, ông chỉ treo ảnh một mình cụ Phan Bội Châu thôi. Tôi nghĩ phải có lý do gì thôi thúc lắm ông mới bỏ gần cả cuộc đời để nghiên cứu và hoàn thành một tác phẩm kinh điển 14 tập về cụ Phan như thế. Dày dặn và trang trọng hơn tác phẩm "Tư bản luận" của Mác hay "Chước tác" Hồ Chí Minh. Tôi tin trong quá trình nghiên cứu Phan Bội Châu ông thừa biết tội của cha già đã bán đứng nhà yêu nước họ Phan cho thực dân Pháp lấy tiền như thế nào. Vì thời thế ông không tiện bộc lộ, mà bắt chúng tôi phải tự mò mẫm tìm hiểu lấy mà thôi. Năm 2005, tình cờ tập "Nhật ký trong tù" rơi vào tay tôi. Trước đó tuy phải học, phải nhồi sọ về bác nhưng tôi chẳng nhớ điều gì cụ thể ngoài nỗi đắng cay vì thi tốt nghiệp bị 2 điểm môn văn (suýt trượt) trong khi phân tích bài "Giải đi sớm" của người. Lần này tôi đọc kỹ lưỡng hơn, như sợi tóc chẻ làm tư, một khối quay ru bích quay đủ 7 mặt. Tôi ngạc nhiên vì một câu bác nhận xét tập thơ của Cù Huy Cận lại rất đúng trong trường hợp này: Bài hay xen lẫn với bài thường. Như thơ của hai người khác nhau cùng làm vậy. Cái hay thì vượt trội hẳn lên, còn bài thường thì ngô ngọng, chả có vẻ gì là thơ cả. Trong tôi loé lên sự nghi ngờ và quyết định phải làm rõ sự nghi ngờ của mình dù phải mất bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Nhìn một cây không thể thấy cả cánh rừng, tôi mò vào thư viện mượn hai cuốn: Thơ Hồ Chí Minh và Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cùng rất nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn viết về người như Tố Hữu, Chế lan Viên... Càng đọc tôi càng tin vào nhận định sắc sảo của những ông bạn già. Đúng là thơ văn đích thực của cụ chả có gì đáng nói cả, nếu so với những bài thơ của người dân oan bị mất đất mất nhà thì thơ họ làm còn hay hơn vạn lần (cho dù đa phần là mù chữ), ít nhất nó cũng có tâm trạng buồn phiền đau xót, có sự việc cụ thể mà tôi tin dưới bầu trời mặt đất này không nơi nào còn tồn tại những cảnh đời khổ ải như ở Việt Nam, vì thế mà lay động tâm trí, lương tâm người đọc (trừ bọn quan tham, vua điếc) điều khiến tôi phẫn nộ là cụ rất ảo tưởng về mình, trừ mảng thơ chúc tết mà tôi đã mạo muội dự đoán: Lượng thơ không đáng kể, tầm nhìn xa không quá bản thân mình. Và: Thật là một sự xúc phạm ngôn từ quá lớn nếu gọi đó là thơ vì lổn nhổn các lời chúc khẩu hiệu gói trong nền cờ cách mạng v.v và v.v, còn một mảng thơ tuyên truyền gồm 30 bài. Quả thực chưa lần nào đọc thơ (kể cả thơ của tác giả nghiệp dư, đem đến nhờ tôi đọc để nâng cấp hy vọng được xuất hiện trên văn đàn) tôi phải phẫn nộ như lần này. Thơ như đấm vào lỗ tai như thế mà bắt anh chị em dân vận phải học thuộc lòng rồi đi tuyên truyền vận động bà con. Cụ còn bảo hễ ai thuộc nhiều sẽ được trọng thưởng. Chả trách lớp lãnh đạo đàn em cụ đều thuộc diện khinh học cả, vẫn lãnh đạo đất nước như thường, khiến 81 triệu dân Việt Nam được thể "thiến" nhanh, "thiến" thẳng, "thiến" vững chắc lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua giai đoạn giãy chết là chủ nghĩa tư bản). Nghĩa là bị đảng thiến là sẽ chết ngay chứ không cần giẫy chết như kiểu thiến của chế độ tư bản chủ nghĩa... Trong nỗi bức xúc tột cùng ấy tôi bắt tay vào viết bài đầu tiên:Phát hiện thêm về Hồ chủ tịch, tuy được bạn đọc hưởng ứng hết sức nhiệt tình, nhưng tôi tâm đắc với một nhận xét chẳng ưu ái gì về đứa con tinh thần của mình "Gọi là phát hiện thêm nhưng thực chất chẳng có gì mới cả, quan trọng chỉ là một tiếng nói trung thực ở trong nước". Thú thực lúc đầu tôi hơi tự ái, vì 20 năm cầm bút, kể cả khi còn phải lấp ló sau cánh màn sân khấu, tôi chưa khi nào bị nhận xét theo kiểu kỳ cọ, coi thường như thế. Sau khi sục sạo vào cả kho tư tưởng, xưởng ý kiến của tất cả 256 người, đặc biệt là bản di chúc cuối cùng của cụ do báo Thức Tỉnh San Jose đăng lại từ tờ Con Ong ở Pháp, tôi hiểu là tác giả những lời nhận định cực đoan đó hoàn toàn có lý. Chỉ là mới và thêm so với những người trong nước bị Đảng kìm kẹp, đầu độc tư tưởng thôi, còn với độc giả Hải Ngoại thì họ biết tỏng ra rồi. Thế mà tôi nhớ trước khi lên mạng, tôi bí mật cho một vài người bạn thân thiết trong nước đọc, họ rất lo ngại. Người bảo tôi sinh phải giờ liều, gan to hơn trái núi, người dặn cẩn thận với cánh PA25 đấy. Họ quan niệm "bắt nhầm hơn bỏ sót". Bắt một người để cả triệu phải khiếp lây rồi ai nuôi con v.v và v.v. Chứng tỏ với người Việt Nam thế hệ trung niên như chúng tôi - tất cả những mặt trái của tấm huân chương (trong đó có bác) đều bị bưng bít, ai nói khác đi một chút là bị kẹp chì ngay, kẹp tư tưởng không được thì tổ chức cho kẹp xe để kẹp đầu luôn. Nhờ các tư liệu quý báu mà bạn đọc Hải Ngoại cung cấp (gấp trăm nghìn lần những điều tôi nghe lỏm từ các lão làng hôm nào), tôi quyết định phải dựng lại chân dung Hồ Chí Minh, để thế hệ cháu con không bao giờ bị đầu độc nữa. Có sách mới áo hoa là nhờ ơn ông bà bố mẹ chứ Đảng bóc lột con dân còn hơn tư bản, thiến dân theo kiểu thiến nhanh, thiến mạnh, thiến vững chắc lên địa ngục xã hội chủ nghĩa thì không chết là may rồi lấy đâu ra mà "vui tung tăng em ca có đảng cuộc đời nở hoa". Trong vương quốc tối tăm này tiền bạc của cải chỉ giành cho những kẻ độc tài, mù loà về đạo lý, lương tâm, kiến thức, còn tầng lớp trí thức chúng tôi, những người may mắn sinh ra từ những quả trứng rồng lại phải chịu cảnh thất nghiệp, tù túng, chết mòn trong vây, nhục hơn cả Từ Hải chết đứng. Như câu thơ tôi đã viết: Đất nước chìm trong cảnh mù loàBao nhiêu Từ Hải chết trong vâyTrời xanh biển rộng đâu mà vẫyĐành làm mọi tôi ở xứ này. Nghiã là làm mọi tôi cho những kẻ xuất thân từ dòng giống liu điu khác như Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn An v.v. Suy xét cả bốn đời từ đời ông bà nội ngoại đến đời bố mẹ rồi đời tôi và đời con tôi, chúng tôi không những không hề được lợi lộc gì từ Đảng mà còn bị Đảng bóc lột đến trắng mắt, trắng tay. Ông nội tôi xuất thân trong một gia đình giàu có ở thôn quê, 2 tháng rưỡi đã được bố mẹ bế lên Hà Nội ở, được nuôi ăn học đầy đủ, sau khi tốt nghiệp trường hậu bổ trở thành quan thông ngôn, chuyên phiên dịch tiếng pháp cho nhà nước Đại Pháp. Nếu các cụ tôi còn bao nhiêu cánh đồng thẳng cánh cò bay ở quê, thì ông nội tôi cũng giàu ức vạn. Trong nhà có tới 13 gia nhân, người ở, từ vú nuôi, con sen, đến người ở, người giúp việc bán hàng, người kéo xe tay, tài xế chuyên buôn vải và gạo tấm từ Nam Định lên cho bà tôi bán tại cửa hàng riêng của gia đình. Vào tay cách mạng, ông tôi mới 48 tuổi bị đột quỵ mà chết, cả nhà lẫn xe hiến hết cho nhà nước. Bác tôi học trường An-Ba-se-ro không chịu nổi cảnh mấy con mẹ bán xôi ngoài cửa trường mình hôm trước một điều cậu hai điều con, nay lên làm tổ trưởng dân phố, mặt vênh như bánh đa nướng chuyên săm soi vào tận gầm giường người khác để tìm vàng tâng công, liền bỏ vào Nam. Bố tôi học trường Bưởi được "giác ngộ" cách mạng từ bé. Nên khi 14, 15 tuổi đã lên giọng chửi bố và anh là bám đit đế quốc đòi từ để một lòng một dạ theo Cách mạng. Sinh ra là con quan, có gia nhân theo hầu từng li từng tí mà khi trở thành anh bộ đội cụ hồ khổ hơn trâu, chó. Từ một thư sinh trắng trẻo khôi ngô thành khỉ Trường Sơn, rồi chết trong mòn mỏi kiệt quệ, trong ngờ vực đớn đau giữa mùa hè 1986. Thời kỳ khốn khó nhất của Việt Nam, sau mười năm phỏng giái, lãnh đạo miền Bắc tiếp quản, thu gom hết tài sản của miền Nam trù phú cho riêng mình nên cả nước ôm nhau ngắc ngoải trong từng ô tem phiếu. Từ lúc theo cách mạng không được ăn no lấy một ngày, ngược hẳn với quãng đời trước đó. Bà ngoại tôi dù có công nuôi cả đại đội trong nhà vẫn bị quy thành địa chủ. Goá chồng lúc 55 vì ông tôi tự tử trong trại giam, 9 đứa con mạnh đứa nào đứa ấy chạy. Cứ chị cả tha em út, anh hai cõng em 5 v.v. người lên rừng, người xuống biển người vô Nam. Bác cả tôi, vì muốn gặp lại ông bà và các em nên sau khi giải phóng Miền Nam, kiên quyết không di tản, dù có 6 người con là lính cộng hoà, cấp bậc trung tướng, thiếu tá, đem xe về tận nhà rước má... cuối cùng phải trả bằng cái giá đớn đau nhất: Chết trong nghèo đói bệnh tật, con cái thất nghiệp, nhà cửa tiêu điều xơ xác. Chị họ tôi đỗ thủ khoa, từng được bà Trần Lệ Xuân vợ của ông cố vấn Ngô Đình Nhu đội vương miện trên đầu, 8 lần vượt biển cùng người yêu không thành, cuối cùng đành để anh ra đi trước, nếu còn sống thì thu xếp đón vợ mới cưới sang sau... vậy mà cho đến năm 47 tuổi ước mơ mới thành hiện thực. Sống bên nhau vì nghiã thôi còn tình thì quá date rồi, đúng như bài hát mà các thành viên trong trại tù của chị vẫn nghêu ngao hát: Tù lâu quá đi thôi, L... tôi teo hết rồi, Đảng ơi [2]. Mẹ tôi 16 tuổi đã phải ra khỏi nhà trở thành Thanh niên xung phong. Làm đường tàu, tuyến đường Hà Nội Thái Nguyên, dưới bóng tối của Đảng, lại dính thêm thành phần là con đại địa chủ, cho dù có là địa chủ kháng chiến đi chăng nữa cũng khổ và nhục hơn triệu triệu lần thời thực dân pháp xâm lược. Tôi được học hành nhờ mẹ thắt lưng buộc bụng, cộng thêm những cẳng cải già, cuống súp lơ, bắp cải trước nhà của bếp trường đại học thải ra, mẹ tôi tiếc rẻ nhặt lại, lược bỏ hết phần xơ phía ngoài lấy lõi bên trong làm rau ăn quanh năm. 15 năm học không một ngày học thêm, toàn vịn câu nói của bố mà vươn lên: Khả năng con người là vô tận, hãy biết khai thác bản thân mình con ạ. Thế là từ lúc lên 9, lên 10 đã biết gõ vào đầu mình để nắm bắt kiến thức và bây giờ liên tục gõ vào đầu mình để viết, lặn ngụp trong câu chữ kiếm ăn, nuôi con và nuôi gia đình nhỏ của mình, không hề nhận được bất cứ đặc ân nào của Đảng, vì ngay sau khi chuyển từ miền núi về Hà Nội đã bị người của Đảng tống ra khỏi biên chế để thế chân con em cháu cha vào. Bắt đầu có chút của ăn của để là nhờ sự giới thiệu, dẫn dắt, kê chỗ đứng của các nhà dân chủ và bây giờ hoàn toàn trông vào tấm lòng của bà con anh em Hải Ngoại, những người biết được cái tài của tôi mà trọng dụng. Nếu không hẳn tôi đã chết rũ trong ngôi nhà xã hội chủ nghĩa tồi tàn vì không công ăn việc làm hoặc phải tự thiêu như bà Phạm thị Trung Thu để đòi lại quyền lợi cho con cái. Vì thế bắt tôi ơn Đảng, ơn bác sao được? Nhà bác học Lê Quý Đôn người đi trước Mác 300 đã nói: Người tài không dùng, sĩ phu ngoảnh mặt kia mà. Nếu Đảng kết tội tôi ngoảnh mặt với Đảng cũng là lẽ đương nhiên. Hơn nữa Đảng nào có tốt đẹp gì, bắt tôi phải đồng loã với cái ác, cái xấu của Đảng sao được? Ngay Hồ Chí Minh trong di chúc của mình cũng nói rõ sự sai lầm của mình vì đã đưa đất nước đi theo con đường của Liên Xô, Trung cộng cơ mà. Ngày 14-8-1969, trước khi đi tìm Lê Nin Các Mác để hỏi tội, cụ đã từng tuyên bố trong di chúc cho cô con gái lai Pháp của mình rằng: Chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ. Họ lừa dối nhân dân để chiếm lấy chính quyền cho nước Nga khi đó". Trước khi biết mình bị đầu độc bằng mũi tiêm của bác sĩ Tôn Thất Tùng, cụ đã mong ước cho nước ta và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa sớm ra khỏi ách cộng sản. Nhưng thôi tội của Đảng kể muôn năm không hết, mình tôi kể chỉ là giọt nước trong biển cả, sẽ đến ngày 81 triệu dân Việt Nam vùng lên kể tội Đảng, trả Đảng về đúng nơi mà Đảng đã chui ra. Đó là bóng đêm, là hang tối, là khe sâu, vực cao... không khác được.
Hà Nội, cuối năm 2005
Lên 5, tôi theo gia đình đi sơ tán, giữa vùng quê nghèo đói, người dân coi giấc ngủ bữa ăn, củ khoai, cây lúa quan trọng hơn việc nhồi nhét chữ nghiã trong đầu, tôi nhanh chóng nổi bật lên chinh phục bọn trẻ làng; vừa là con cán bộ sơ tán, đi học có áo trắng, quần lửng để mặc, trong khi bọn trẻ quê đi học còn phải mặc áo rách, hở khuy, tòi ra cả một đống bụng màu nâu xỉn. Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đủ để tôi được các thầy cô cảm tình trở thành cháu ngoan Bác Hồ, tôi lấy làm kiêu hãnh về điều ấy lắm. Khi trở lại Hà Nội, tuy danh hiệu cháu ngoan không còn vì có vô vàn đứa trẻ khác giỏi và ngoan ngoãn hơn tôi, nhưng hình ảnh bác vẫn còn in dấu mãi trong tôi. Mở mắt là nghe tiếng thơ phát trên đài: Nhà em treo ảnh bác hồ,Bên trên là một lá cờ đỏ tươiNgày ngày bác mỉm miệng cườiBác nhìn các cháu vui chơi trong nhà... Mười năm học phổ thông, tôi bị đúc khuôn nhồi sọ bởi đủ thứ tư tưởng nội quy, quan điểm, lập trường, đúng như lời nhận định của nhà bác học Tôn Thất Tùng: Trẻ em Việt Nam là một sinh vật ngủ đêm quá ngắn còn ban ngày phải đối phó với đủ mọi quy định nghiệt ngã của nhà trường. Nào nội quy, quy chế, nào thi cử nặng nề, rồi chương trình dài lê thê. Suốt 15 năm học (từ vỡ lòng đến khi tốt nghiệp Đại học), chúng tôi chỉ biết có "Học, học nữa, học mãi" theo lời dạy của Lê Nin. Không ít đứa trẻ trong số chúng tôi học đến mức... đau tim, hộc máu chỉ vì muốn đua chen một chỗ đứng trên giải đường đại học. 15 năm học với tôi như một cực hình tra tấn, trong khi nhà nước cho tiêu chuẩn mỗi tháng 13 kg gạo, một lạng thịt, dăm bìa đậu, mà chúng tôi phải đạp xe 8-10 cây số tới trường xa lơ lắc, người vêu vao như những đon mạ còi không lớn nổi vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều đứa trong bọn tôi nói vui nhưng cũng đầy ngậm ngùi cay đắng: Hình như nhà nước càng hạn chế bán gạo, tớ càng ăn khỏe. Ba bát cơm một bữa chả là cái quái gì, mà ăn hơn thì bố mẹ lại phải nhìn nhau, nhịn ăn để nhường phần cho. Thật không biết sau khi ra trường có nên ông nên bà gì không mà nhìn ánh mắt mẹ buồn buồn trong bữa ăn, tế nhị nhắc các em trong nhà bớt ăn thức ăn đi một chút vì anh nó sắp thi học kỳ là thấy thương quá. Không biết sau này phải trả nghiã bố mẹ ra sao? Tốt nghiệp ra trường với số điểm ưu, tôi những tưởng sẽ được trọng dụng, ai ngờ nhận quyết định đi Lai Châu, mẹ ôm lấy tôi, nước mắt lã chã: ở nhà thôi con ạ, lên trên ấy nước độc, rừng thiêng, không sống nổi đâu. Nhà nghèo 4 năm trời tôi vẫn không xin được việc, rồi không thể ăn bám bố mẹ trong khi túi tiền bị Đảng "bao" nhiều "cấp" ít, tôi đành phải trốn mẹ ra đi. Mẹ tôi khóc còn hơn ngày ông ngoại bị đội trưởng đội cải cách đến bắt, phải rạch ruột bằng mắt kính bẻ đôi để tử tự. Lên rừng đang thời điểm 1986, cả nước ngắc ngoải trong cơn đói, tầng lớp trí thức chúng tôi được Đảng ưu tiên chỉ đạo tự túc lương thực 3 tháng. Hết ba tháng này lại ba tháng khác, quả thật tôi không hiểu làm sao mình qua được những ngày dài đói lả ấy. Câu thơ của nhà thơ Duy Phi cứ khoan sâu trong óc: Đời ông lặp lại đời chaĐời con cháu nối mãi đời cụ kỵQuý khoai sắn hơn là sâm với quếRau muống ơi, xin hãy muộn mùa hoa. Anh chủ nhà, quê Ninh Bình, lên khai hoang kinh tế mới, nơi chúng tôi thường xuyên qua lại để trò chuyện, giải thích: - Mong rau muống muộn mùa hoa để làm bánh đấy các cô chú ạ. Có lẽ chúng tôi sống được là nhờ bà con - những phụ huynh học sinh gốc kinh lên nông trường theo tiếng gọi của Đảng, đùm bọc bằng tất cả tấm lòng trân quý nhất. Mở cửa ra, thấy nặng tay, cố ảy, chợt có vài trái bí mán lăn long lóc xuống tận chân đồi. Tử tế hơn là cân sắn, cân khoai, nải chuối, quả đu đủ rừng. Học bác sĩ Tôn Thất Tùng trong những ngày theo kháng chiến, có ngày tôi phải ăn 20-30 quả chuối thay cơm. Đói cồn cào xót ruột đến mức nhìn thấy chuối là sợ nhưng nhà nước đã cố tình cắt cơm chúng tôi thì biết làm thế nào? Chả lẽ lại vác cái dạ dày thõng thẹo hình dấu phẩy lên sở giáo dục mà bảo: Chúng tôi đói lắm, trả lương, cấp gạo cho chúng tôi ăn đi, đừng bắt tự túc lương thực mãi thế? Vì kế hoạch trăm năm chúng tôi phải lên rừng trồng người rồi, đừng bắt chúng tôi phải vì kế hoạch 1 năm trồng lúa nữa. Bao nhiêu thầy cô giáo chúng tôi đói quá phải bỏ qua cả "lợi ích một đêm" là... làm tình rồi. Trước ba đêm không gặp nhau một lần thì khí dồn lên não, bây giờ ba tháng tự túc lương thực, đói cơm, rét cật làm sao chúng tôi "dậm dật" được? Trong tôi lúc ấy không hề có khái niệm nổi loạn, đêm đêm chong mắt chấm bài cho học trò, rồi vẩn vơ nghĩ về nhân tình thế thái. Sáng ra nghe tiếng ru của anh chủ nhà vọng sang mà thêm nẫu ruột: Con ơi con ngủ cho lâu,Mẹ mày đi chợ cơm đâu mà đòiĐói no thì đã tỏ rồiCha đành lấp lửng những lời ru suông. Thằng bé con út của anh chị mới được hai tháng mà bố mẹ đã lăn lê ngoài đồng bãi nương rẫy kiếm ăn. Thức ăn duy nhất là nước đường loãng đựng trong chai thay sữa giao cho bà nội cứ mút chùn chụt. Cả ngày chỉ được ăn thêm 2 đĩa bột muối. Không hiểu sao nó vẫn cứ lớn lên được? Buồn, đói, chả còn cách nào giải khuây, trong khi hội bạn lao vào chơi "tú lơ khơ" giết thời gian thì tôi lao vào những mê cung rắc rối của ngôn từ. Không ngờ những vần thơ đầu tiên về Đảng cộng Sản thân yêu của tôi lại là những vần thơ tiên đoán về thời thế: Nhầm lẫn rồi hỡi bác kính yêuChủ nghĩa xã hội đang trên đường tắt lụiGiữa đất nước của Lê nin vĩ đạiCách mạng Nga làm Lịch sử thụt lùiThế kỷ nghèo sinh sản bác vĩ nhânBày con cháu gắng gánh tròn hậu quảLà ngư dân bác chỉ lo được thếĐất nước đói nghèo nhờ di chúc thiêng liêng. Bài thơ dài 11 khổ, giữa tuổi đời 29, tưởng tràn căng sức sống mà lại nặng trĩu những âu lo. Lúi húi chép lại thành 5, 7 bản để tặng cho những người thân yêu nhất không ngờ, đáp lại thái độ chân tình của tôi họ xua tôi như đuổi tà:- Thôi thôi, tôi không nghe cái thứ thơ chính trị, chính em ấy đâu. Bạn không định biến tôi thành thằng phản động chứ? Trong khi bao bài thơ trữ tình trước đó, hầu như bài nào tôi cũng được khen, có chị còn nghiện thơ của tôi, mượn về nhà cho con cái chép lại vào sổ tay. Bây giờ nó nằm trong tình trạng "im lặng đáng sợ" với ai cũng chỉ có một thái độ duy nhất "không biết, không nghe, không thấy."- Cái gì phải đến đã đến, 3 năm sau toàn bộ hệ thống Đông Âu sụp đổ. Điều mà tôi dự đoán trong thơ đã hoàn toàn linh nghiệm. Bạn bè bắt đầu nhìn tôi bằng một con mắt khác, dè dặt hơn, thận trọng hơn, như thể tôi là một kẻ nổi loạn thực sự và nếu chơi với tôi sẽ có ngày mất đoàn, mất Đảng như chơi. Năm 1994 tôi mới được về Hà Nội lo chuyện lập gia đình. Đám cưới của hai trí thức nghèo cùng làm nghề gõ đầu trẻ chỉ toàn ảnh đen trắng. Khi hạch toán, toàn bộ số tiền mừng vừa khoẳn các khoản thuê. Cho dù phải ngửa tay xin mẹ tiền mua xe đạp nhưng tất nhiên tôi vui lắm, rốt cục tôi cũng biết thế nào nghiã vợ tình chồng, là áo đơn, áo kép không bằng da nọ nép da kia, là vợ chồng hoà thuận là tiên trên trần (Ban ngày) còn ban đêm ắt hẳn phải thành "tiên ở trần" rồi. Sự nghèo đói cứ lẽo đẽo theo chân chúng tôi từng bước, thay vì gõ đầu trẻ chúng tôi bắt đầu gõ vào đầu nhau chan chát (như chó đốm với mèo khoang). Vì đồng lương chết đói không thể nào bôi đủ cho ba người từ đầu đến cuối tháng. Trong khi còn mẹ già, em dại. Quả là kiếp trí thức trong thời đại Hồ Chí Minh - nơi thiên đường xã hội chủ nghĩa do bác du nhập từ Nga về khổ hơn kiếp lợn, kiếp chó. Suốt thời sinh viên và thời lên rừng khai sáng văn minh cho đồng bào dân tộc, cho đến tận lúc này chúng tôi vẫn bị Đảng bỏ quên. Không "đào tận gốc trốc tận rễ" như khẩu hiệu năm 1930, 1931 là còn may chán. Nhờ thừa hửơng hệ gien của dòng họ: "Trứng rồng lại nở ra rồng" tôi được chuyển nghề, từ gõ đầu trẻ sang gõ đầu mình. Rồi thường xuyên có mặt trong đội ngũ viết thuê cho các nhà xuất bản. Nhờ vinh dự đặc biệt này, mà tôi thường xuyên được tiếp xúc với các nhà văn nhà báo lão thành, những cây đa cây đề, bậc tiên chỉ trong làng báo và làng văn xã hội chủ nghĩa. Tuổi già là kho báu. Tiếp cận với họ tôi thực sự được tắm trong suối nguồn hào phóng của tri thức, trong đó có cả đề tài về bác. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy họ có những nhận định táo bạo về vị cha già dân tộc, chẳng hề tôn kính chút nào như nhà nước và Đảng đã đầu độc họ. Không hề sợ phạm huý, giữa những người cầm bút với nhau. Họ bộc lộ thẳng thắn: "xì ông cụ nhà mình toàn đạo trích, giỏi giang cái đếch gì". Để chứng minh, họ lôi ra tràng giang đại hải những tiếng Nôm tiếng Hán, tôi nghe mà ù cả tai, rồi người khác tiếp tục khẳng định: Cả tập "Ngục trung nhật ký" có phải của cụ đếch đâu, trình độ cụ biết chó gì mà đòi làm thơ chữ Hán, chẳng qua cụ ăn cắp của người khác thôi, điều này thì có ông Từ Mục hay Hữu Mục gì đó ở Hải Ngoại chứng minh rồi... Và: Sao cái lớp trẻ dễ tin thế nhỉ, người như cụ Hồ mà giản dị, độc thân sao được? Rồi: Thằng bé Trung, con ông cụ không biết giờ này sao rồi. Đảng mình ác thật... Những lời tiên tri ấy lập tức găm sâu vào đầu óc tôi như rêu xanh bám chặt vào tảng đá.Suốt cả đêm tôi lúi húi chép lại từng lời từng chữ vào trang sổ của mình, sáng ra có điều gì không rõ lại phải làm như vô tình hỏi lại để tăng tính xác thực cho tư liệu... Trước đó qua số bạn bè cùng dạy, tôi may mắn gặp nhà viết chèo Tào Mạt, nổi tiếng với "bài ca giữ nước", sau khi mối quan hệ trở nên thân mật, ông bộc lộ: Tôi được trung ương giao cho viết một vở chèo về bác, thú thật lúc đầu tôi thấy vinh dự lắm liền vào ngay thư viện ôm một đống sách về để nghiềm ngẫm, vào tận quê ông cụ để lấy thêm tư liệu, đọc cả sách nước ngoài ca ngợi cụ, rồi để cả năm trời kiểm chứng, cuối cùng phải bỏ, vì cụ Hồ là người người hoàn toàn không tin được, đầy gian giảo, xảo quyệt, khác hẳn với những điều bịa đặt trong sách. Bây giờ để có tác phẩm thay thế, tôi phải chuyển sang viết về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tôi ngỡ ngàng nhìn ông như nhìn một tên nghịch tặc, nhưng tôi tin trong ông phải có ẩn ức sâu sa lắm mới nói được những lời nguy hiểm chết người như thế. Không bao lâu sau tôi nghe tin ông bị người của Đảng rình bắt tại khu vực 51 Trần Hưng Đạo, 65 phố Nguyễn Du, 9 Nguyễn Đình Chiểu, 19 Hàng Buồm [1] những nơi ông thường xuyên lui tới để gặp gỡ anh chị em trong giới "tối" tác. Cũng may bà Trần thị Bát, một người đàn bà vô cùng quê mùa nhưng lại rất "tỉnh đòn" trong những việc bắt bớ, rình rập này đã lăn xả vào giữ chân chồng suốt một thời gian dài không cho ông ra Hà Nội, nên vụ vây bắt không thành. Sau đó không bao lâu ông bị bệnh và chết, nhưng ấn tượng từ câu nói của ông về bác Hồ làm tôi không thể nào quên. Tết 2003 tôi đến nhà bác Chương Thâu, người bỏ tiền của sang Nhật, tìm tư liệu để viết 14 tập về nhà yêu nước Phan Bội Châu. Ông không nói lộ ra ngoài nhưng đọc trong mắt ông, tôi biết ông chẳng ưa gì người cha già của dân tộc mình. Ông bảo: Nếu cho phép treo ảnh lãnh tụ, ông chỉ treo ảnh một mình cụ Phan Bội Châu thôi. Tôi nghĩ phải có lý do gì thôi thúc lắm ông mới bỏ gần cả cuộc đời để nghiên cứu và hoàn thành một tác phẩm kinh điển 14 tập về cụ Phan như thế. Dày dặn và trang trọng hơn tác phẩm "Tư bản luận" của Mác hay "Chước tác" Hồ Chí Minh. Tôi tin trong quá trình nghiên cứu Phan Bội Châu ông thừa biết tội của cha già đã bán đứng nhà yêu nước họ Phan cho thực dân Pháp lấy tiền như thế nào. Vì thời thế ông không tiện bộc lộ, mà bắt chúng tôi phải tự mò mẫm tìm hiểu lấy mà thôi. Năm 2005, tình cờ tập "Nhật ký trong tù" rơi vào tay tôi. Trước đó tuy phải học, phải nhồi sọ về bác nhưng tôi chẳng nhớ điều gì cụ thể ngoài nỗi đắng cay vì thi tốt nghiệp bị 2 điểm môn văn (suýt trượt) trong khi phân tích bài "Giải đi sớm" của người. Lần này tôi đọc kỹ lưỡng hơn, như sợi tóc chẻ làm tư, một khối quay ru bích quay đủ 7 mặt. Tôi ngạc nhiên vì một câu bác nhận xét tập thơ của Cù Huy Cận lại rất đúng trong trường hợp này: Bài hay xen lẫn với bài thường. Như thơ của hai người khác nhau cùng làm vậy. Cái hay thì vượt trội hẳn lên, còn bài thường thì ngô ngọng, chả có vẻ gì là thơ cả. Trong tôi loé lên sự nghi ngờ và quyết định phải làm rõ sự nghi ngờ của mình dù phải mất bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Nhìn một cây không thể thấy cả cánh rừng, tôi mò vào thư viện mượn hai cuốn: Thơ Hồ Chí Minh và Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cùng rất nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn viết về người như Tố Hữu, Chế lan Viên... Càng đọc tôi càng tin vào nhận định sắc sảo của những ông bạn già. Đúng là thơ văn đích thực của cụ chả có gì đáng nói cả, nếu so với những bài thơ của người dân oan bị mất đất mất nhà thì thơ họ làm còn hay hơn vạn lần (cho dù đa phần là mù chữ), ít nhất nó cũng có tâm trạng buồn phiền đau xót, có sự việc cụ thể mà tôi tin dưới bầu trời mặt đất này không nơi nào còn tồn tại những cảnh đời khổ ải như ở Việt Nam, vì thế mà lay động tâm trí, lương tâm người đọc (trừ bọn quan tham, vua điếc) điều khiến tôi phẫn nộ là cụ rất ảo tưởng về mình, trừ mảng thơ chúc tết mà tôi đã mạo muội dự đoán: Lượng thơ không đáng kể, tầm nhìn xa không quá bản thân mình. Và: Thật là một sự xúc phạm ngôn từ quá lớn nếu gọi đó là thơ vì lổn nhổn các lời chúc khẩu hiệu gói trong nền cờ cách mạng v.v và v.v, còn một mảng thơ tuyên truyền gồm 30 bài. Quả thực chưa lần nào đọc thơ (kể cả thơ của tác giả nghiệp dư, đem đến nhờ tôi đọc để nâng cấp hy vọng được xuất hiện trên văn đàn) tôi phải phẫn nộ như lần này. Thơ như đấm vào lỗ tai như thế mà bắt anh chị em dân vận phải học thuộc lòng rồi đi tuyên truyền vận động bà con. Cụ còn bảo hễ ai thuộc nhiều sẽ được trọng thưởng. Chả trách lớp lãnh đạo đàn em cụ đều thuộc diện khinh học cả, vẫn lãnh đạo đất nước như thường, khiến 81 triệu dân Việt Nam được thể "thiến" nhanh, "thiến" thẳng, "thiến" vững chắc lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua giai đoạn giãy chết là chủ nghĩa tư bản). Nghĩa là bị đảng thiến là sẽ chết ngay chứ không cần giẫy chết như kiểu thiến của chế độ tư bản chủ nghĩa... Trong nỗi bức xúc tột cùng ấy tôi bắt tay vào viết bài đầu tiên:Phát hiện thêm về Hồ chủ tịch, tuy được bạn đọc hưởng ứng hết sức nhiệt tình, nhưng tôi tâm đắc với một nhận xét chẳng ưu ái gì về đứa con tinh thần của mình "Gọi là phát hiện thêm nhưng thực chất chẳng có gì mới cả, quan trọng chỉ là một tiếng nói trung thực ở trong nước". Thú thực lúc đầu tôi hơi tự ái, vì 20 năm cầm bút, kể cả khi còn phải lấp ló sau cánh màn sân khấu, tôi chưa khi nào bị nhận xét theo kiểu kỳ cọ, coi thường như thế. Sau khi sục sạo vào cả kho tư tưởng, xưởng ý kiến của tất cả 256 người, đặc biệt là bản di chúc cuối cùng của cụ do báo Thức Tỉnh San Jose đăng lại từ tờ Con Ong ở Pháp, tôi hiểu là tác giả những lời nhận định cực đoan đó hoàn toàn có lý. Chỉ là mới và thêm so với những người trong nước bị Đảng kìm kẹp, đầu độc tư tưởng thôi, còn với độc giả Hải Ngoại thì họ biết tỏng ra rồi. Thế mà tôi nhớ trước khi lên mạng, tôi bí mật cho một vài người bạn thân thiết trong nước đọc, họ rất lo ngại. Người bảo tôi sinh phải giờ liều, gan to hơn trái núi, người dặn cẩn thận với cánh PA25 đấy. Họ quan niệm "bắt nhầm hơn bỏ sót". Bắt một người để cả triệu phải khiếp lây rồi ai nuôi con v.v và v.v. Chứng tỏ với người Việt Nam thế hệ trung niên như chúng tôi - tất cả những mặt trái của tấm huân chương (trong đó có bác) đều bị bưng bít, ai nói khác đi một chút là bị kẹp chì ngay, kẹp tư tưởng không được thì tổ chức cho kẹp xe để kẹp đầu luôn. Nhờ các tư liệu quý báu mà bạn đọc Hải Ngoại cung cấp (gấp trăm nghìn lần những điều tôi nghe lỏm từ các lão làng hôm nào), tôi quyết định phải dựng lại chân dung Hồ Chí Minh, để thế hệ cháu con không bao giờ bị đầu độc nữa. Có sách mới áo hoa là nhờ ơn ông bà bố mẹ chứ Đảng bóc lột con dân còn hơn tư bản, thiến dân theo kiểu thiến nhanh, thiến mạnh, thiến vững chắc lên địa ngục xã hội chủ nghĩa thì không chết là may rồi lấy đâu ra mà "vui tung tăng em ca có đảng cuộc đời nở hoa". Trong vương quốc tối tăm này tiền bạc của cải chỉ giành cho những kẻ độc tài, mù loà về đạo lý, lương tâm, kiến thức, còn tầng lớp trí thức chúng tôi, những người may mắn sinh ra từ những quả trứng rồng lại phải chịu cảnh thất nghiệp, tù túng, chết mòn trong vây, nhục hơn cả Từ Hải chết đứng. Như câu thơ tôi đã viết: Đất nước chìm trong cảnh mù loàBao nhiêu Từ Hải chết trong vâyTrời xanh biển rộng đâu mà vẫyĐành làm mọi tôi ở xứ này. Nghiã là làm mọi tôi cho những kẻ xuất thân từ dòng giống liu điu khác như Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn An v.v. Suy xét cả bốn đời từ đời ông bà nội ngoại đến đời bố mẹ rồi đời tôi và đời con tôi, chúng tôi không những không hề được lợi lộc gì từ Đảng mà còn bị Đảng bóc lột đến trắng mắt, trắng tay. Ông nội tôi xuất thân trong một gia đình giàu có ở thôn quê, 2 tháng rưỡi đã được bố mẹ bế lên Hà Nội ở, được nuôi ăn học đầy đủ, sau khi tốt nghiệp trường hậu bổ trở thành quan thông ngôn, chuyên phiên dịch tiếng pháp cho nhà nước Đại Pháp. Nếu các cụ tôi còn bao nhiêu cánh đồng thẳng cánh cò bay ở quê, thì ông nội tôi cũng giàu ức vạn. Trong nhà có tới 13 gia nhân, người ở, từ vú nuôi, con sen, đến người ở, người giúp việc bán hàng, người kéo xe tay, tài xế chuyên buôn vải và gạo tấm từ Nam Định lên cho bà tôi bán tại cửa hàng riêng của gia đình. Vào tay cách mạng, ông tôi mới 48 tuổi bị đột quỵ mà chết, cả nhà lẫn xe hiến hết cho nhà nước. Bác tôi học trường An-Ba-se-ro không chịu nổi cảnh mấy con mẹ bán xôi ngoài cửa trường mình hôm trước một điều cậu hai điều con, nay lên làm tổ trưởng dân phố, mặt vênh như bánh đa nướng chuyên săm soi vào tận gầm giường người khác để tìm vàng tâng công, liền bỏ vào Nam. Bố tôi học trường Bưởi được "giác ngộ" cách mạng từ bé. Nên khi 14, 15 tuổi đã lên giọng chửi bố và anh là bám đit đế quốc đòi từ để một lòng một dạ theo Cách mạng. Sinh ra là con quan, có gia nhân theo hầu từng li từng tí mà khi trở thành anh bộ đội cụ hồ khổ hơn trâu, chó. Từ một thư sinh trắng trẻo khôi ngô thành khỉ Trường Sơn, rồi chết trong mòn mỏi kiệt quệ, trong ngờ vực đớn đau giữa mùa hè 1986. Thời kỳ khốn khó nhất của Việt Nam, sau mười năm phỏng giái, lãnh đạo miền Bắc tiếp quản, thu gom hết tài sản của miền Nam trù phú cho riêng mình nên cả nước ôm nhau ngắc ngoải trong từng ô tem phiếu. Từ lúc theo cách mạng không được ăn no lấy một ngày, ngược hẳn với quãng đời trước đó. Bà ngoại tôi dù có công nuôi cả đại đội trong nhà vẫn bị quy thành địa chủ. Goá chồng lúc 55 vì ông tôi tự tử trong trại giam, 9 đứa con mạnh đứa nào đứa ấy chạy. Cứ chị cả tha em út, anh hai cõng em 5 v.v. người lên rừng, người xuống biển người vô Nam. Bác cả tôi, vì muốn gặp lại ông bà và các em nên sau khi giải phóng Miền Nam, kiên quyết không di tản, dù có 6 người con là lính cộng hoà, cấp bậc trung tướng, thiếu tá, đem xe về tận nhà rước má... cuối cùng phải trả bằng cái giá đớn đau nhất: Chết trong nghèo đói bệnh tật, con cái thất nghiệp, nhà cửa tiêu điều xơ xác. Chị họ tôi đỗ thủ khoa, từng được bà Trần Lệ Xuân vợ của ông cố vấn Ngô Đình Nhu đội vương miện trên đầu, 8 lần vượt biển cùng người yêu không thành, cuối cùng đành để anh ra đi trước, nếu còn sống thì thu xếp đón vợ mới cưới sang sau... vậy mà cho đến năm 47 tuổi ước mơ mới thành hiện thực. Sống bên nhau vì nghiã thôi còn tình thì quá date rồi, đúng như bài hát mà các thành viên trong trại tù của chị vẫn nghêu ngao hát: Tù lâu quá đi thôi, L... tôi teo hết rồi, Đảng ơi [2]. Mẹ tôi 16 tuổi đã phải ra khỏi nhà trở thành Thanh niên xung phong. Làm đường tàu, tuyến đường Hà Nội Thái Nguyên, dưới bóng tối của Đảng, lại dính thêm thành phần là con đại địa chủ, cho dù có là địa chủ kháng chiến đi chăng nữa cũng khổ và nhục hơn triệu triệu lần thời thực dân pháp xâm lược. Tôi được học hành nhờ mẹ thắt lưng buộc bụng, cộng thêm những cẳng cải già, cuống súp lơ, bắp cải trước nhà của bếp trường đại học thải ra, mẹ tôi tiếc rẻ nhặt lại, lược bỏ hết phần xơ phía ngoài lấy lõi bên trong làm rau ăn quanh năm. 15 năm học không một ngày học thêm, toàn vịn câu nói của bố mà vươn lên: Khả năng con người là vô tận, hãy biết khai thác bản thân mình con ạ. Thế là từ lúc lên 9, lên 10 đã biết gõ vào đầu mình để nắm bắt kiến thức và bây giờ liên tục gõ vào đầu mình để viết, lặn ngụp trong câu chữ kiếm ăn, nuôi con và nuôi gia đình nhỏ của mình, không hề nhận được bất cứ đặc ân nào của Đảng, vì ngay sau khi chuyển từ miền núi về Hà Nội đã bị người của Đảng tống ra khỏi biên chế để thế chân con em cháu cha vào. Bắt đầu có chút của ăn của để là nhờ sự giới thiệu, dẫn dắt, kê chỗ đứng của các nhà dân chủ và bây giờ hoàn toàn trông vào tấm lòng của bà con anh em Hải Ngoại, những người biết được cái tài của tôi mà trọng dụng. Nếu không hẳn tôi đã chết rũ trong ngôi nhà xã hội chủ nghĩa tồi tàn vì không công ăn việc làm hoặc phải tự thiêu như bà Phạm thị Trung Thu để đòi lại quyền lợi cho con cái. Vì thế bắt tôi ơn Đảng, ơn bác sao được? Nhà bác học Lê Quý Đôn người đi trước Mác 300 đã nói: Người tài không dùng, sĩ phu ngoảnh mặt kia mà. Nếu Đảng kết tội tôi ngoảnh mặt với Đảng cũng là lẽ đương nhiên. Hơn nữa Đảng nào có tốt đẹp gì, bắt tôi phải đồng loã với cái ác, cái xấu của Đảng sao được? Ngay Hồ Chí Minh trong di chúc của mình cũng nói rõ sự sai lầm của mình vì đã đưa đất nước đi theo con đường của Liên Xô, Trung cộng cơ mà. Ngày 14-8-1969, trước khi đi tìm Lê Nin Các Mác để hỏi tội, cụ đã từng tuyên bố trong di chúc cho cô con gái lai Pháp của mình rằng: Chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ. Họ lừa dối nhân dân để chiếm lấy chính quyền cho nước Nga khi đó". Trước khi biết mình bị đầu độc bằng mũi tiêm của bác sĩ Tôn Thất Tùng, cụ đã mong ước cho nước ta và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa sớm ra khỏi ách cộng sản. Nhưng thôi tội của Đảng kể muôn năm không hết, mình tôi kể chỉ là giọt nước trong biển cả, sẽ đến ngày 81 triệu dân Việt Nam vùng lên kể tội Đảng, trả Đảng về đúng nơi mà Đảng đã chui ra. Đó là bóng đêm, là hang tối, là khe sâu, vực cao... không khác được.
Hà Nội, cuối năm 2005
Trần Khải Thanh Thủy
Ghi chú:
[1]- Trụ sở hội liên hiệp văn hoá nghệ thuật, nhà xuất bản tác phẩm mới hội nhà văn Hà Nội và hội nhà Văn Việt Nam.
[2]. Nhại lời bài: Mặt trời bé thơ của Trần Tiến.
Thứ Tư, 25 tháng 3, 2009
Thư Hiệp Thông với Giáo Xứ Thái Hà
Thư hiệp thông với Giáo dân Thái Hà nhân vụ phúc thẩm
27-03-2009
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Kính gởi:
- Quý Anh Chị Em Giáo dân : Ngô Thị Dung, Thái Thanh Hải, Lê Thị Hợi, Nguyễn Đắc Hùng, Lê Quang Kiện, Phạm Chí Năng, Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn thị Việt.
- Luật sư Lê Trần Luật, Trợ lý Tạ Phong Tần cùng các Luật sư Phụ tá.
Đồng kính gởi:
- Cha Quý Cha, Quý Thầy, Quý Anh Chị Em Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội.
- Đồng bào Việt Nam trong lẫn ngoài nước và Cộng đồng thế giới Dân chủ.
Kính thưa Quý Anh Chị Em và Quý Luật sư,
Trong ngày 08-12-2008, một phiên tòa đã được toàn thể Đồng bào Việt Nam và Cộng đồng dân chủ thế giới theo dõi. Một phiên tòa hết sức lố bịch vì nhà cầm quyền CSVN đã phải huy động cả một lực lượng trấn áp đông đảo hùng hậu, đã dùng những ngôn từ luận tội đao to búa lớn nhằm uy hiếp tinh thần của Quý Anh Chị Em và những người bạn của Anh Chị Em cũng như che mắt và thị uy với Quốc tế.
May thay, với lòng đơn sơ nhưng can đảm, quyết liệt mà khôn ngoan, cộng với lời biện hộ đanh thép và nhiệt tình của luật sư Lê Trần Luật, Quý Anh Chị Em đã nên Chứng nhân sáng ngời trước tòa án Cộng sản, mạnh mẽ khẳng định mình đã hành xử cách đúng đắn trong vụ Linh địa Thái Hà, khiến các quan tòa công cụ -dưới sự chỉ đạo của đảng- chỉ dám đưa ra một phán quyết nhẹ bỗng so với 2 tội danh nặng nề: án treo và cải tạo không giam giữ!
Thế nhưng Anh Chị Em đã không bằng lòng với mức án gọi là “nương tay”, “khoan hồng”, “nhân đạo” đó! Bởi lẽ bản thân Quý Anh Chị Em và những ai còn có lương tri và lương tâm đều thấy Quý Anh Chị Em hoàn toàn vô tội. Việc tranh đấu cho lẽ phải và sự thật, cho quyền tư hữu đất đai chính đáng của Giáo hội (từ đó cho quyền tư hữu đất đai chính đáng của mọi công dân) bằng phương cách ôn hòa là điều đáng được biểu dương. Thành ra Quý Anh Chị Em đã quyết tâm kiện cho đến cùng, tới lúc mình được tuyên bố trắng án để danh dự được khôi phục. Và điều này đã được tất cả mọi người -ngoại trừ các lãnh đạo CSVN- hoàn toàn ủng hộ. Không thể để cho pháp chế và tòa án của Quốc gia trở thành dụng cụ trấn áp người dân đòi công lý và hợp thức hóa hành vi sai trái của cán bộ Cộng sản!!!
Một hành động lý thú nữa của Quý Anh Chị Em là đã đâm đơn kiện hệ thống báo đài gia nô tối mặt, công cụ đê hèn của Cộng sản -đặc biệt là báo Hà Nội mới và đài truyền hình VTV1- vì họ đã dám xuyên tạc sự thật mà viết là Quý Anh Chị Em đã “cúi đầu nhận tội và xin hưởng sự khoan hồng của nhà nước”!?! (Như mấy tháng trước đó, họ chuyên loan tin thất thiệt, dàn dựng láo khoét, mạ lỵ trắng trợn từ Đức Tổng Giám mục Hà Nội, Quý Linh mục quản xứ Thái Hà đến Anh Chị Em... thế mà vẫn nhận được giải báo chí nữa chứ! Thật là ô nhục!). Những lời nói và hình ảnh ghi lại về phiên tòa được tung ra khắp thế giới ngay sau đó cho thấy các cơ quan thông tin này đã dối trá một cách vô liêm sỉ! Sao họ lại có thể hành động trơ trẽn và dại dột như thế trong thời đại thông tin nhanh nhạy và toàn cầu này?? Và một lần nữa, mọi người cũng đồng lòng ủng hộ việc kiện báo đài CS của Quý Anh Chị Em. Không thể để cho nhà cầm quyền mặc tình thao túng các cơ quan truyền thông, đầu độc dư luận đồng bào và quốc tế, ngang nhiên đổi trắng thay đen mọi việc, biến những con người lẽ ra là “tôi tớ của sự thật” thành “nô lệ của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản”!!!
Khốn thay, với tính gian manh thâm căn cố đế, với thói mù quáng tin tưởng bạo lực, nhà cầm quyền CS đã và đang huy động hệ thống công cụ từ tòa án đến báo đài, từ công an đến Mặt trận, để hăm dọa Quý Anh Chị Em và Luật sư biện hộ của Anh Chị Em. Những trò hề dụ khị, dọa dẫm, khất lần, chối bai bải, bảo chờ chỉ đạo, gây khó khăn trong thủ tục đối với Quý Anh Chị Em; cũng như những màn cướp bóc văn phòng, cưỡng bức thẩm vấn, mạ lỵ danh dự, phá hoại công việc, ngăn chận đi lại đối với Luật sư Lê Trần Luật và các phụ tá (mà cả thế giới đang tỏ tường qua những bản tin, những buổi trả lời phỏng vấn của người trong cuộc) đã cho thấy cái chế độ chuyên dùng bạo lực này đang run rẩy trước những con người không tấc sắt nhưng có lẽ phải và lòng can đảm, đã cho thấy cái nhà nước chuyên thói dối gian này đang lúng túng trước những con người tầm thường trong xã hội nhưng đang đứng về phía sự thật với một lương tâm ngay chính.
Dù sao, cuối cùng, dưới áp lực của Công luận cũng như của chính Anh Chị Em và của các Luật sư biện hộ, nhà cầm quyền CS đành phải mở phiên tòa phúc thẩm trong ngày 27-03 tới (nhưng không biết có để cho Luật sư Lê Trần Luật đến chăng?) đang khi vẫn ngoan cố không chịu cải chính tin tức thất thiệt (một điều hết sức dễ dàng và đơn giản nếu đủ khiêm tốn và thiện chí) trái lại vẫn tìm cách cho chìm xuồng vụ kiện “cả chủ lẫn tớ xuyên tạc sự thật” của Quý Anh Chị Em.
Cùng với bao người đang theo dõi phiên tòa phúc thẩm và vụ kiện báo đài chưa từng có và rất hy hữu này, anh em Linh mục chúng tôi xin hiệp thông cầu nguyện và nhất tâm ủng hộ Quý Anh Chị Em và các Luật sư của Văn phòng Luật sư pháp quyền. Đây là lần đầu tiên trong chế độ CSVN, Quý Anh Chị Em đã thực thi cách cương quyết quyền công dân thiêng liêng: đòi tôn trọng công lý, đòi xác nhận sự thật, đòi khôi phục danh dự, và sâu xa hơn nữa, đòi được hưởng những nhân quyền chính đáng đang bị CS tước đoạt, trong đó có quyền tư hữu đất đai của cá nhân lẫn tập thể. Quý Anh Chị Em và Quý Luật sư biện hộ đang ung dung thách thức cái chế độ và chính đảng áp bức bất công, tham nhũng bóc lột, dối trá bạo hành này. Quý Anh Chị Em đang đánh một đòn chí mạng vào nền luật pháp công cụ để cứu các quan tòa khỏi thân phận nô bộc đớn hèn, hầu giúp họ trở lại địa vị cao quý của những kẻ cầm cân công lý. Quý Anh Chị Em đang đánh một đòn chí tử vào nền truyền thông công cụ để cứu các người làm báo khỏi thân phận bầy tôi nhục nhã, hầu giúp họ trở lại địa vị cao quý của những kẻ phục vụ sự thật. Quý Anh Chị Em đang nắm giữ niềm hy vọng lớn lao của toàn thể đồng bào trong lẫn ngoài nước, mà từ hơn nửa thế kỷ nay, bản thân vẫn phải rên siết dưới ách luật rừng và tâm trí vẫn phải gánh chịu lối tuyên truyền nhồi sọ!
Chúng tôi chỉ biết lấy những lời của Chúa Giêsu sau đây để gửi tới Quý Anh Chị Em: “Sự thật sẽ giải thoát Anh em” (Ga 8,32) và “Khi người ta đưa Anh em ra trước mặt những người cầm quyền, thì Anh em đừng lo phải bào chữa làm sao hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho Anh em biết những điều phải nói” (Lc 12,11).
Hỡi Quý Anh Chị em Giáo dân và Quý Luật sư biện hộ, đừng chùn bước, xông thẳng tới đi! Xin hãy cùng với toàn thể Quý Cha và toàn bộ Giáo xứ Thái Hà tái biểu dương sức mạnh đức tin và sức mạnh lẽ phải!!!
Việt Nam ngày 23-03-2009
Đại diện nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền:
- Linh mục Têphanô Chân Tín, dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn (đang hưu dưỡng tại dòng)
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế (đang bị theo dõi tại xứ)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang bị giam giữ tại tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản chế tại gia)
27-03-2009
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Kính gởi:
- Quý Anh Chị Em Giáo dân : Ngô Thị Dung, Thái Thanh Hải, Lê Thị Hợi, Nguyễn Đắc Hùng, Lê Quang Kiện, Phạm Chí Năng, Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn thị Việt.
- Luật sư Lê Trần Luật, Trợ lý Tạ Phong Tần cùng các Luật sư Phụ tá.
Đồng kính gởi:
- Cha Quý Cha, Quý Thầy, Quý Anh Chị Em Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội.
- Đồng bào Việt Nam trong lẫn ngoài nước và Cộng đồng thế giới Dân chủ.
Kính thưa Quý Anh Chị Em và Quý Luật sư,
Trong ngày 08-12-2008, một phiên tòa đã được toàn thể Đồng bào Việt Nam và Cộng đồng dân chủ thế giới theo dõi. Một phiên tòa hết sức lố bịch vì nhà cầm quyền CSVN đã phải huy động cả một lực lượng trấn áp đông đảo hùng hậu, đã dùng những ngôn từ luận tội đao to búa lớn nhằm uy hiếp tinh thần của Quý Anh Chị Em và những người bạn của Anh Chị Em cũng như che mắt và thị uy với Quốc tế.
May thay, với lòng đơn sơ nhưng can đảm, quyết liệt mà khôn ngoan, cộng với lời biện hộ đanh thép và nhiệt tình của luật sư Lê Trần Luật, Quý Anh Chị Em đã nên Chứng nhân sáng ngời trước tòa án Cộng sản, mạnh mẽ khẳng định mình đã hành xử cách đúng đắn trong vụ Linh địa Thái Hà, khiến các quan tòa công cụ -dưới sự chỉ đạo của đảng- chỉ dám đưa ra một phán quyết nhẹ bỗng so với 2 tội danh nặng nề: án treo và cải tạo không giam giữ!
Thế nhưng Anh Chị Em đã không bằng lòng với mức án gọi là “nương tay”, “khoan hồng”, “nhân đạo” đó! Bởi lẽ bản thân Quý Anh Chị Em và những ai còn có lương tri và lương tâm đều thấy Quý Anh Chị Em hoàn toàn vô tội. Việc tranh đấu cho lẽ phải và sự thật, cho quyền tư hữu đất đai chính đáng của Giáo hội (từ đó cho quyền tư hữu đất đai chính đáng của mọi công dân) bằng phương cách ôn hòa là điều đáng được biểu dương. Thành ra Quý Anh Chị Em đã quyết tâm kiện cho đến cùng, tới lúc mình được tuyên bố trắng án để danh dự được khôi phục. Và điều này đã được tất cả mọi người -ngoại trừ các lãnh đạo CSVN- hoàn toàn ủng hộ. Không thể để cho pháp chế và tòa án của Quốc gia trở thành dụng cụ trấn áp người dân đòi công lý và hợp thức hóa hành vi sai trái của cán bộ Cộng sản!!!
Một hành động lý thú nữa của Quý Anh Chị Em là đã đâm đơn kiện hệ thống báo đài gia nô tối mặt, công cụ đê hèn của Cộng sản -đặc biệt là báo Hà Nội mới và đài truyền hình VTV1- vì họ đã dám xuyên tạc sự thật mà viết là Quý Anh Chị Em đã “cúi đầu nhận tội và xin hưởng sự khoan hồng của nhà nước”!?! (Như mấy tháng trước đó, họ chuyên loan tin thất thiệt, dàn dựng láo khoét, mạ lỵ trắng trợn từ Đức Tổng Giám mục Hà Nội, Quý Linh mục quản xứ Thái Hà đến Anh Chị Em... thế mà vẫn nhận được giải báo chí nữa chứ! Thật là ô nhục!). Những lời nói và hình ảnh ghi lại về phiên tòa được tung ra khắp thế giới ngay sau đó cho thấy các cơ quan thông tin này đã dối trá một cách vô liêm sỉ! Sao họ lại có thể hành động trơ trẽn và dại dột như thế trong thời đại thông tin nhanh nhạy và toàn cầu này?? Và một lần nữa, mọi người cũng đồng lòng ủng hộ việc kiện báo đài CS của Quý Anh Chị Em. Không thể để cho nhà cầm quyền mặc tình thao túng các cơ quan truyền thông, đầu độc dư luận đồng bào và quốc tế, ngang nhiên đổi trắng thay đen mọi việc, biến những con người lẽ ra là “tôi tớ của sự thật” thành “nô lệ của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản”!!!
Khốn thay, với tính gian manh thâm căn cố đế, với thói mù quáng tin tưởng bạo lực, nhà cầm quyền CS đã và đang huy động hệ thống công cụ từ tòa án đến báo đài, từ công an đến Mặt trận, để hăm dọa Quý Anh Chị Em và Luật sư biện hộ của Anh Chị Em. Những trò hề dụ khị, dọa dẫm, khất lần, chối bai bải, bảo chờ chỉ đạo, gây khó khăn trong thủ tục đối với Quý Anh Chị Em; cũng như những màn cướp bóc văn phòng, cưỡng bức thẩm vấn, mạ lỵ danh dự, phá hoại công việc, ngăn chận đi lại đối với Luật sư Lê Trần Luật và các phụ tá (mà cả thế giới đang tỏ tường qua những bản tin, những buổi trả lời phỏng vấn của người trong cuộc) đã cho thấy cái chế độ chuyên dùng bạo lực này đang run rẩy trước những con người không tấc sắt nhưng có lẽ phải và lòng can đảm, đã cho thấy cái nhà nước chuyên thói dối gian này đang lúng túng trước những con người tầm thường trong xã hội nhưng đang đứng về phía sự thật với một lương tâm ngay chính.
Dù sao, cuối cùng, dưới áp lực của Công luận cũng như của chính Anh Chị Em và của các Luật sư biện hộ, nhà cầm quyền CS đành phải mở phiên tòa phúc thẩm trong ngày 27-03 tới (nhưng không biết có để cho Luật sư Lê Trần Luật đến chăng?) đang khi vẫn ngoan cố không chịu cải chính tin tức thất thiệt (một điều hết sức dễ dàng và đơn giản nếu đủ khiêm tốn và thiện chí) trái lại vẫn tìm cách cho chìm xuồng vụ kiện “cả chủ lẫn tớ xuyên tạc sự thật” của Quý Anh Chị Em.
Cùng với bao người đang theo dõi phiên tòa phúc thẩm và vụ kiện báo đài chưa từng có và rất hy hữu này, anh em Linh mục chúng tôi xin hiệp thông cầu nguyện và nhất tâm ủng hộ Quý Anh Chị Em và các Luật sư của Văn phòng Luật sư pháp quyền. Đây là lần đầu tiên trong chế độ CSVN, Quý Anh Chị Em đã thực thi cách cương quyết quyền công dân thiêng liêng: đòi tôn trọng công lý, đòi xác nhận sự thật, đòi khôi phục danh dự, và sâu xa hơn nữa, đòi được hưởng những nhân quyền chính đáng đang bị CS tước đoạt, trong đó có quyền tư hữu đất đai của cá nhân lẫn tập thể. Quý Anh Chị Em và Quý Luật sư biện hộ đang ung dung thách thức cái chế độ và chính đảng áp bức bất công, tham nhũng bóc lột, dối trá bạo hành này. Quý Anh Chị Em đang đánh một đòn chí mạng vào nền luật pháp công cụ để cứu các quan tòa khỏi thân phận nô bộc đớn hèn, hầu giúp họ trở lại địa vị cao quý của những kẻ cầm cân công lý. Quý Anh Chị Em đang đánh một đòn chí tử vào nền truyền thông công cụ để cứu các người làm báo khỏi thân phận bầy tôi nhục nhã, hầu giúp họ trở lại địa vị cao quý của những kẻ phục vụ sự thật. Quý Anh Chị Em đang nắm giữ niềm hy vọng lớn lao của toàn thể đồng bào trong lẫn ngoài nước, mà từ hơn nửa thế kỷ nay, bản thân vẫn phải rên siết dưới ách luật rừng và tâm trí vẫn phải gánh chịu lối tuyên truyền nhồi sọ!
Chúng tôi chỉ biết lấy những lời của Chúa Giêsu sau đây để gửi tới Quý Anh Chị Em: “Sự thật sẽ giải thoát Anh em” (Ga 8,32) và “Khi người ta đưa Anh em ra trước mặt những người cầm quyền, thì Anh em đừng lo phải bào chữa làm sao hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho Anh em biết những điều phải nói” (Lc 12,11).
Hỡi Quý Anh Chị em Giáo dân và Quý Luật sư biện hộ, đừng chùn bước, xông thẳng tới đi! Xin hãy cùng với toàn thể Quý Cha và toàn bộ Giáo xứ Thái Hà tái biểu dương sức mạnh đức tin và sức mạnh lẽ phải!!!
Việt Nam ngày 23-03-2009
Đại diện nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền:
- Linh mục Têphanô Chân Tín, dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn (đang hưu dưỡng tại dòng)
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế (đang bị theo dõi tại xứ)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang bị giam giữ tại tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản chế tại gia)
TRUNG CỘNG MUỐN BIẾN VIỆT NAN THÀNH TÂY TẠNG THỨ HAI
Vạch Trần Chiến Lược của Trung Cộng
Nhằm Biến Cải Đất Cao Nguyên Miền Nam Việt Nam Thành Tây Tạng Thứ Hai
Cao nguyên Trung phần là xương sống của Việt Nam và là một vị trí chiến lược, quân sự và kinh tế. Hiện tại, cao nguyên nầy góp phần không nhỏ vào việc thu nhập ngoại tệ qua xuất cảng cà phê, trà và hột tiêu. Nhưng hiện tại, vùng đất basan màu mỡ nầy đang đứng trước hiễm hoạ bị tàn phá do âm mưu của ngoại bang phương Bắc.
Ngày 22 tháng 12 năm 2008, có một sự kiện nổi bật xảy ra tại Việt Nam. Đó là cột mốc phân chia biên giới đã được chính thức khánh thành trước sự chứng kiến của đại diện của hai quốc gia Việt Nam cộng sản và Trung cộng tại Ải Nam Quan. Sự kiện thứ hai xảy ra vào tháng 2, 2009 cũng không kém phần quan trọng là một cuốn sách vừa phát hành ở Hà Nội vinh danh một ông tướng Tàu (ngưới viết thấy không cần thiết phải nêu tên kẽ thù dân tộc ra đây) trong cuộc chiến ngắn ngũi ở 6 tỉnh biên giới Việt-Trung vào tháng 2 năm 1979.
- Sự kiện thứ nhất có ý nghĩa “thời đại sâu sắc” là kể từ nay, ít nhất là trên phương diện chính trị, chúng ta xem như đã mất Ải Nam Quan vì cột mốc số 1116 nằm ở phía Nam của Ải và cách Ải 280 thước tây. Và thác Bản Giốc đã trở thành một địa điểm du lịch của …Trung Quốc cũng như TQ đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt Nam mời gọi người Việt đi thăm tụ điểm du lịch nầy. Quả thật mỉa mai! Một đất nước đã được cha ông vun bồi từ ngàn năm trước, để rồi ngày nay con cháu Việt lại bán dâng cho ngoại bang.
- Sự kiện thứ hai nói lên tâm lý đầu hàng, một não trạng quy phục của những người đang nắm quyền bính đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, nếu ngày xưa Lê Chiêu Thống đã để lại một vết nhơ lớn qua việc rước voi về dày mồ, thì ngày nay, dân tộc Việt Nam lại phải đau lòng chứng kiến sự kiện đất đai của tổ tiên bị bọn buôn dân bán nước cắt xén dâng lên cho ngoại bang một cách nhục nhã. Nhắc đến điều nầy, ai trong chúng ta, những người thức thời và còn tinh thần quốc sỉ, quốc nhục, hẳn không khỏi bất mãn khi thấy thái độ tôn vinh ca ngợi kẻ cầm đầu đạo binh hùng hậu tiến tới tàn phá biên giới miền Bắc theo một tài liệu do nhà xuất bản Văn Hoá (Hà Nội) phát hành.
Hành động xâm lăng nầy đã gây tử vong không ít cho cả đôi bên từ 60 đến 120 ngàn người (cả hai bên đều giữ bí mật cho nên con số chỉ được ước tính qua các nguồn tin ngoại quốc mà thôi). Ai không cảm thấy bất nhẫn trước “đống xương vô định đã cao bằng đầu” như thế? Nếu ngày xưa bọn xâm lược Bắc phương (giặc Minh) trong khi xâm lấn nước ta bị lên án trong Bình Ngô Đại Cáo là “Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội, Nhơ bẩn thay, nước biển không rửa sạch mùi” thì ngày nay, lại chính nhà cầm quyền Việt Nam cộng sản đã vừa để lại vết nhơ tương tự.
Thêm nữa, nghĩa địa chôn cất kẻ ngoại xâm lại có bia dựng đầy nhân nghĩa theo kiểu nhân nghĩa bà Tú Đễ là “Nghĩa trang Liệt sĩ Trung -Việt”. Hiện nay, có trên 40 nghĩa trang “Ghi ơn liệt sĩ Trung Quốc” nằm rãi rác ở miền Bắc; mộ bia và cổng vào được ghi bằng chữ Hán và Việt, đôi khi hoàn toàn bằng chữ Hán. Nhưng chưa hết, trên trang bìa sau của cuốn sách, còn trịnh trọng ca ngợi kẻ thù đã xâm lược, giết hại đồng bào của mình qua hình ảnh người lính Trung hoa “anh hùng”.
Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước của dân tộc lại bị giáng cấp
như hiện tại do hai hành động điển hình trên của lãnh đạo Việt Nam cộng sản.
Tuy nhiên, cũng chính nhờ hai sự kiện nổi bật trên khiến cho người dân Việt Nam cả hải ngoại lẫn quốc nội đều thấm thía cái điêu linh của đất nước trước thái độ đê hèn, khiếp nhược, thần phục ngoại bang như hiện nay. Đồng thời, ta có thể hình dung được âm mưu tiến chiếm Việt Nam của Trung Cộng qua những diễn tiến chính trị trước mắt. Trong một bài viết vào tháng vừa qua dưới tựa đề “Trung Quốc:”Những mắc xích tiến chiếm Việt Nam”, người viết có nêu lên 7 điểm thể hiện lộ trình cũng như những suy tính của T Q trong công cuộc thôn tính Việt Nam.
Những nhận định tiếp theo đây làm rõ nét thêm các
âm mưu trên qua các thông tin vừa được cập nhựt.
Lộ trình biến cải Cao Nguyên
thành Tây Tạng thứ hai của Trung Cộng
Từ bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận: 1- Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn, 2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Quảng Tri, 3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, 4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, 5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh và Hà Nội, 6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau, 7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Cao nguyên miền Nam Việt Nam.
- Nhận xét về điểm mắc xích thứ hai, ta thấy việc mở rộng con đường số 9 nối liền Quảng Trị qua Tchepone và Sawannakhet bên Lào. Con đường nầy đã được tiếp nối qua sông Cửu Long và kéo dài đến hải cảng phiá tây của Thai Lan là Mawlamyine. Ngoài ra, tin mới nhất vừa nhận được là Trung Quốc đã hoàn tất công trình tu sửa và mở rộng quốc lộ 13 nối liền Bắc Nam của Lào vào cuối năm 2008. Hiện TQ cũng đang tu sửa và mở rộng quốc lộ 7 dự trù hoàn tất vào năm 2010 xuyên Cambodia từ Nam Lào đến hải cảng Sihanoukville ở vịnh Thái Lan. Cả hai dự án nầy là do viện trợ không bồi hoàn của TQ. Như vậy, từ nay, những tỉnh phía Tây TQ đặc biệt là Vân Nam, trung tâm công nghệ hoá chất hàng đầu, đều nối liền ra ba cửa ngõ Thái Bình Dương và vịnh Thái Lan để trao đổi xuất nhập cảng với thế giới bên ngoài.
- Về mắc xích thứ năm, việc thiết lập thiết lộ và xa lộ nối liền Côn Minh (Kunming) – Hà Nội- Hải Phòng và Nam Ninh (Nanning) – Lạng Sơn – Hà Nội. Nơi đây chúng ta cũng có thể hình dung được âm mưu của Trung Quốc trong việc ảnh hưởng lên kinh tế-chính trị-quân sự của Việt Nam qua việc hình thanh các con đường chiến lược kể trên.
Sau cùng, dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ra lịnh tiến hành ngay, mặc dù có biết bao góp ý phản bác từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, thậm chí có những góp ý hoàn toàn trái ngược của Tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp, cùng kinh nghiệm của các quốc gia đã khai thác như Nga Sô, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Quôc và Úc Châu.
Tất cả đều khuyến cáo là không đem lại hiệu quả kinh tế mà mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Quôc phải đóng cửa một nhà máy mới vừa khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của ngưòi dân và sức ép của luật môi trường. Chính vì vậy mà Việt Nam “phải vâng lịnh” tiến hành ngay việc xây dựng hai nhà máy khai thác ở Đắk Nông dưới sự quản lý của nhân công, kỹ sư và thiết bị hoàn toàn do phía Trung Quốc cung cấp.
Hiện tại (tháng 2, 2009), theo tướng Giáp, đã có trên 100 nhân viên Trung Quốc hiện diện ở hai công trường nầy Theo dự tính sẽ có trên 2000 công nhân và kỹ sự TQ cho công trình trên. Họ đã xây dựng lều trại, chuyển chở thiết bị và dụng cụ để khai thác quặng mõ (hay thiết bị quân sự để thăm dò vùng tài nguyên dồi dào của cao nguyên Trung phần nầy?). Qua báo chí, tất cả mọi ngã đường dẫn tới xả Nhân Cơ, trung tâm khai thác quặng mõ đếu có công an đóng chốt, ngăn cấm mọi sự đi lại vào công trường mà chính người dân địa phương cũng không rõ là công trường khai thác gì? Tất cả đều nằm trong bí mật!
Cùng với dự án khai thác bauxite còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyên và Bình Thuận và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải alumin (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển.
Do đó, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, chưa kể đến nguy cơ môi trường trước mắt là không khí bị ô nhiễm, môi trường nước cũng bị ô nhiễm do bùn “đỏ” trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy. Nguy hiểm nhất là bùn đỏ sẽ chiếm lĩnh một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn. Theo ước tính, muốn sản xuất 1,2 triệu tấn alumin hàng năm, phải cần đền một lượng điện gấp đôi lượng điện Việt Nam đang có hiện nay. Vì vậy, để kết luận, tính cách khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một “ý đồ” nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Quốc ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị-quânsự- kinh tế để Trung Quốc có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam ở vùng Cao nguyên miền Nam nầy?
Nếu tổng hợp bảy mắc xích trên lại với nhau, chúng ta có thể hình dung được một sự phối hợp chiến lược nhuần nhuyễn về quân sự-kinh tế-chính trị. Nhưng sự phối hợp đó có thể chỉ để phục vụ cho nhu cầu của đàn anh nước lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất cảng từ lục địa Tây Nam Trung Quốc sang Thái, Lào, Việt Nam và quốc tế. Sản phẩm nhập cảng chiến lược của Trung Quốc là dầu khí, và Dung Quất sẽ là nguồn cung cấp quan trọng cho vùng nầy. Hàng ngày nhu cầu dầu thô cho vùng Vân Nam trên dưới một triệu thùng dầu và hàng trăm ngàn tấn hoá chất, nguyên vật liệu cần thiết cho nhu cầu sản xuất hoá chất ở đây. Mở được các thông lộ vể phía Nam qua ngõ Việt Nam, Thái Lan và Cambodia sẽ hạn chế phí tổn rất lớn cho việc chuyển vận hai chiều so với việc xuyên qua lục địa Tây Đông để tiếp cận với thế giới bên ngoài qua ngõ Quang Đông, Quảnng Châu, Thượng Hải hay Hong Kong. Và còn biết bao lợi ích khác nữa cho Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự và chính trị khi vùng Vân Nam được khai thông về đường thuỷ, đường bộ và trực tiếp đổ ra biển qua những mắc xích kể trên.
Âm mưu Hán hoá Cao nguyên miền Nam
Qua những phân tích vừa nêu trên, chúng ta có thể hình dung một viễn ảnh khá rõ ràng là Trung Quốc đã thể hiện nhiều dấu hiệu chứng tỏ âm mưu thôn tính vùng đất trù phú của Việt Nam, và vùng đất nầy cũng là cột xương sống nối liền Bắc Nam. Một khi chiếm lĩnh vùng nầy dù dưới hình thức nào đi nữa, TQ sẽ nắm trọn khả năng khống chế Việt Nam. Và Việt Nam sẽ không có lựa nào khác là phải…tiếp tục đi theo “bảng chỉ đường của TQ” mà thôi.
Hiện tại, TQ đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm ở cao nguyên Bolloven bên Lào, bên Cambodia, và “nhập nhằng” tóm gọn hai dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một tiến sĩ người Chăm cổ suý. Nhóm nầy cũng được sự hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng Cao nguyên hiện tại đã được các hội thiện nguyện Hoa Kỳ yểm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
Theo tin tức được loan tải trên mạng, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên hiệp Quốc công nhận qua Department Of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế Tham Mưu (consultative status) kể từ năm 2009 nầy.
Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến hồ sơ lên Liên Hiệp Quốc và Thuỵ Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ Lưu vong Chăm (Cham’s Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung Việt Nam, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Theo như dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các chính phủ.
Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay “lông lá” của TC mới có thể thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu dự định đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TQ), nơi có một cộng đồng thiểu số Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang định cư tị nạn tại đây để chạy loạn vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân chúng Chăm năm 988 (theo Georges Maspero trong quyển sách Le Royaume de Champa). Nhưng sau đó, để tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, trụ sở dự định mới sẽ là Thuỵ Điển, nơi có một tiến sĩ người Chăm định cư để tạo danh nghĩa nhằm gây áp lực với Việt Nam cộng sản khi cần thiết.
Câu hỏi được đặt ra là TQ giúp người
Chàm hải ngoại nhằm mục đích gì?
Câu trả lời giản dị sẽ là, TQ muốn hoàn toàn khống chế Việt Nam trong lãnh vực kinh tế-quân sụ-chính trị qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần. Nắm được cao nguyên nầy, TQ sẽ biến vùng nầy thành một vùng “lệ thuộc” như miền đất Tây Tạng năm 1959. Đã siết được yết hầu của Việt Nam rồi, mặc nhiên TQ có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của Việt Nam trong mọi tình huống. Và biết đâu trong một tương lai không xa sau đó, Việt Nam có thể sẽ là một tỉnh “lẽ” của TQ?
Nếu viễn ảnh trên đây trở thành một sự thật thì rõ ràng, điều nầy sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt.
Chúng ta phải làm gì
trước chiến lược đen tối của Trung Cộng?
Đây là câu hỏi được đặt ra… vấn đề “phải đoàn kết lại” để chống “Trung Cộng”.
Câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi con dân Việt dù ở quốc nội hay hải ngoại. Đứng trước việc khai thác quặng mõ bauxite trên, Việt Nam cộng sản trong một “chiêu thức “ khác, qua tác động của những nhóm, hội đoàn ngoại vi… đã khơi dậy lòng yêu nước của người Việt khắp nơi trong đó có cả người Việt hải ngoại cùng nhau “đoàn kết” lại để “chống Trung Quốc”.
Đây là một chiêu thức độc đáo làm cho một số người Việt hải ngoại có thể “siêu lòng” trước những lời chiêu dụ trên. Xin đừng quên, 84 triệu con dân Việt (trừ bớt số lượng đảng viên đảng cộng sản) đang còn chịu đựng ách thống trị hà khắc của một chế độ chuyên chính và độc tài, bóp nghẹt tất cả mọi khát vọng tự do dân chủ của người dân. Do đó, chúng ta cần phải cảnh giác để khỏi vướng vào vòng kim cô của Nghị quyết 36.
Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta phải nhắm
vào hai mặt có tính cách quyết định:
- Thứ nhất, tiếp tục vận động và phối hợp với những nhà dân chủ trong nước, chuyển tải tin tức cập nhật ngõ hầu cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam.
- Thứ hai, kêu gọi sự yểm trợ của thế giới tự do qua chiến lược cụ thể của Trung Cộng nhằm tiến chiếm Việt Nam dưới một hình thức “thực dân” mới, không cần động binh để chiếm đóng như ngày xưa nữa.
Hai việc nầy cần phải được thực hiện song hành cùng một lúc và việc cần phải làm chính yếu là nỗ lực vận động để thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam phải là ưu tiên hàng đầu.
Thay lời kết
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Quốc và lý tính thuần phục của Việt Nam hiện tại.
Đặc biệt qua sự kiện khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên, không còn gì để chối cải nữa là Việt Nam hoàn toàn thụ động trước tiến trình chiếm cứ vùng Cao nguyên miền Nam Việt Nam của Trung Quốc. Việt Nam hòan toàn nằm trong gọng kiềm của Trung Quốc qua các mắc xích phân tích trên và lộ trình biến cải Cao Nguyên thành một Tây Tạng thứ hai sẽ là một hiện thực trong một tương lai không xa.
Để kết luận, xin mượn lời nói đầu của Báo Sinh Viên Yêu Nước mới vừa được thành hình ở Việt Nam vào ngày 23 tháng 2 năm 2009:
Chúng tôi đã từng cùng các bạn xuống đường tham gia
các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền
của đất nước. Đã từng chua xót, chảy nước mắt khi thấy
lòng yêu nước cũa mình bị nhà nước Việt Nam ngăn chận.
Có đất nước nào trên thế giới nầy mà lòng yêu nước
của nhân dân bị ngăn cấm?
Có đất nước nào mà lòng yêu nước của nhân dân
bị chế độ coi là tội phạm?
Có đất nước nào mà lòng yêu nước của nhân dân
phải đồng nghĩa với yêu kẻ xâm lược?
Và có đất nước nào mà kẻ xâm lược được ca ngợi và bảo vệ?
Còn người yêu nước thì phải ngồi tù?”
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
Đệ nhứt Phó Chủ tịch Đại Việt Quốc Dân Đảng
West Covina, 3/2009
Nhằm Biến Cải Đất Cao Nguyên Miền Nam Việt Nam Thành Tây Tạng Thứ Hai
Cao nguyên Trung phần là xương sống của Việt Nam và là một vị trí chiến lược, quân sự và kinh tế. Hiện tại, cao nguyên nầy góp phần không nhỏ vào việc thu nhập ngoại tệ qua xuất cảng cà phê, trà và hột tiêu. Nhưng hiện tại, vùng đất basan màu mỡ nầy đang đứng trước hiễm hoạ bị tàn phá do âm mưu của ngoại bang phương Bắc.
Ngày 22 tháng 12 năm 2008, có một sự kiện nổi bật xảy ra tại Việt Nam. Đó là cột mốc phân chia biên giới đã được chính thức khánh thành trước sự chứng kiến của đại diện của hai quốc gia Việt Nam cộng sản và Trung cộng tại Ải Nam Quan. Sự kiện thứ hai xảy ra vào tháng 2, 2009 cũng không kém phần quan trọng là một cuốn sách vừa phát hành ở Hà Nội vinh danh một ông tướng Tàu (ngưới viết thấy không cần thiết phải nêu tên kẽ thù dân tộc ra đây) trong cuộc chiến ngắn ngũi ở 6 tỉnh biên giới Việt-Trung vào tháng 2 năm 1979.
- Sự kiện thứ nhất có ý nghĩa “thời đại sâu sắc” là kể từ nay, ít nhất là trên phương diện chính trị, chúng ta xem như đã mất Ải Nam Quan vì cột mốc số 1116 nằm ở phía Nam của Ải và cách Ải 280 thước tây. Và thác Bản Giốc đã trở thành một địa điểm du lịch của …Trung Quốc cũng như TQ đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt Nam mời gọi người Việt đi thăm tụ điểm du lịch nầy. Quả thật mỉa mai! Một đất nước đã được cha ông vun bồi từ ngàn năm trước, để rồi ngày nay con cháu Việt lại bán dâng cho ngoại bang.
- Sự kiện thứ hai nói lên tâm lý đầu hàng, một não trạng quy phục của những người đang nắm quyền bính đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, nếu ngày xưa Lê Chiêu Thống đã để lại một vết nhơ lớn qua việc rước voi về dày mồ, thì ngày nay, dân tộc Việt Nam lại phải đau lòng chứng kiến sự kiện đất đai của tổ tiên bị bọn buôn dân bán nước cắt xén dâng lên cho ngoại bang một cách nhục nhã. Nhắc đến điều nầy, ai trong chúng ta, những người thức thời và còn tinh thần quốc sỉ, quốc nhục, hẳn không khỏi bất mãn khi thấy thái độ tôn vinh ca ngợi kẻ cầm đầu đạo binh hùng hậu tiến tới tàn phá biên giới miền Bắc theo một tài liệu do nhà xuất bản Văn Hoá (Hà Nội) phát hành.
Hành động xâm lăng nầy đã gây tử vong không ít cho cả đôi bên từ 60 đến 120 ngàn người (cả hai bên đều giữ bí mật cho nên con số chỉ được ước tính qua các nguồn tin ngoại quốc mà thôi). Ai không cảm thấy bất nhẫn trước “đống xương vô định đã cao bằng đầu” như thế? Nếu ngày xưa bọn xâm lược Bắc phương (giặc Minh) trong khi xâm lấn nước ta bị lên án trong Bình Ngô Đại Cáo là “Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội, Nhơ bẩn thay, nước biển không rửa sạch mùi” thì ngày nay, lại chính nhà cầm quyền Việt Nam cộng sản đã vừa để lại vết nhơ tương tự.
Thêm nữa, nghĩa địa chôn cất kẻ ngoại xâm lại có bia dựng đầy nhân nghĩa theo kiểu nhân nghĩa bà Tú Đễ là “Nghĩa trang Liệt sĩ Trung -Việt”. Hiện nay, có trên 40 nghĩa trang “Ghi ơn liệt sĩ Trung Quốc” nằm rãi rác ở miền Bắc; mộ bia và cổng vào được ghi bằng chữ Hán và Việt, đôi khi hoàn toàn bằng chữ Hán. Nhưng chưa hết, trên trang bìa sau của cuốn sách, còn trịnh trọng ca ngợi kẻ thù đã xâm lược, giết hại đồng bào của mình qua hình ảnh người lính Trung hoa “anh hùng”.
Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước của dân tộc lại bị giáng cấp
như hiện tại do hai hành động điển hình trên của lãnh đạo Việt Nam cộng sản.
Tuy nhiên, cũng chính nhờ hai sự kiện nổi bật trên khiến cho người dân Việt Nam cả hải ngoại lẫn quốc nội đều thấm thía cái điêu linh của đất nước trước thái độ đê hèn, khiếp nhược, thần phục ngoại bang như hiện nay. Đồng thời, ta có thể hình dung được âm mưu tiến chiếm Việt Nam của Trung Cộng qua những diễn tiến chính trị trước mắt. Trong một bài viết vào tháng vừa qua dưới tựa đề “Trung Quốc:”Những mắc xích tiến chiếm Việt Nam”, người viết có nêu lên 7 điểm thể hiện lộ trình cũng như những suy tính của T Q trong công cuộc thôn tính Việt Nam.
Những nhận định tiếp theo đây làm rõ nét thêm các
âm mưu trên qua các thông tin vừa được cập nhựt.
Lộ trình biến cải Cao Nguyên
thành Tây Tạng thứ hai của Trung Cộng
Từ bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận: 1- Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn, 2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Quảng Tri, 3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, 4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, 5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh và Hà Nội, 6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau, 7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Cao nguyên miền Nam Việt Nam.
- Nhận xét về điểm mắc xích thứ hai, ta thấy việc mở rộng con đường số 9 nối liền Quảng Trị qua Tchepone và Sawannakhet bên Lào. Con đường nầy đã được tiếp nối qua sông Cửu Long và kéo dài đến hải cảng phiá tây của Thai Lan là Mawlamyine. Ngoài ra, tin mới nhất vừa nhận được là Trung Quốc đã hoàn tất công trình tu sửa và mở rộng quốc lộ 13 nối liền Bắc Nam của Lào vào cuối năm 2008. Hiện TQ cũng đang tu sửa và mở rộng quốc lộ 7 dự trù hoàn tất vào năm 2010 xuyên Cambodia từ Nam Lào đến hải cảng Sihanoukville ở vịnh Thái Lan. Cả hai dự án nầy là do viện trợ không bồi hoàn của TQ. Như vậy, từ nay, những tỉnh phía Tây TQ đặc biệt là Vân Nam, trung tâm công nghệ hoá chất hàng đầu, đều nối liền ra ba cửa ngõ Thái Bình Dương và vịnh Thái Lan để trao đổi xuất nhập cảng với thế giới bên ngoài.
- Về mắc xích thứ năm, việc thiết lập thiết lộ và xa lộ nối liền Côn Minh (Kunming) – Hà Nội- Hải Phòng và Nam Ninh (Nanning) – Lạng Sơn – Hà Nội. Nơi đây chúng ta cũng có thể hình dung được âm mưu của Trung Quốc trong việc ảnh hưởng lên kinh tế-chính trị-quân sự của Việt Nam qua việc hình thanh các con đường chiến lược kể trên.
Sau cùng, dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ra lịnh tiến hành ngay, mặc dù có biết bao góp ý phản bác từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, thậm chí có những góp ý hoàn toàn trái ngược của Tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp, cùng kinh nghiệm của các quốc gia đã khai thác như Nga Sô, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Quôc và Úc Châu.
Tất cả đều khuyến cáo là không đem lại hiệu quả kinh tế mà mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Quôc phải đóng cửa một nhà máy mới vừa khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của ngưòi dân và sức ép của luật môi trường. Chính vì vậy mà Việt Nam “phải vâng lịnh” tiến hành ngay việc xây dựng hai nhà máy khai thác ở Đắk Nông dưới sự quản lý của nhân công, kỹ sư và thiết bị hoàn toàn do phía Trung Quốc cung cấp.
Hiện tại (tháng 2, 2009), theo tướng Giáp, đã có trên 100 nhân viên Trung Quốc hiện diện ở hai công trường nầy Theo dự tính sẽ có trên 2000 công nhân và kỹ sự TQ cho công trình trên. Họ đã xây dựng lều trại, chuyển chở thiết bị và dụng cụ để khai thác quặng mõ (hay thiết bị quân sự để thăm dò vùng tài nguyên dồi dào của cao nguyên Trung phần nầy?). Qua báo chí, tất cả mọi ngã đường dẫn tới xả Nhân Cơ, trung tâm khai thác quặng mõ đếu có công an đóng chốt, ngăn cấm mọi sự đi lại vào công trường mà chính người dân địa phương cũng không rõ là công trường khai thác gì? Tất cả đều nằm trong bí mật!
Cùng với dự án khai thác bauxite còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyên và Bình Thuận và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải alumin (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển.
Do đó, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, chưa kể đến nguy cơ môi trường trước mắt là không khí bị ô nhiễm, môi trường nước cũng bị ô nhiễm do bùn “đỏ” trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy. Nguy hiểm nhất là bùn đỏ sẽ chiếm lĩnh một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn. Theo ước tính, muốn sản xuất 1,2 triệu tấn alumin hàng năm, phải cần đền một lượng điện gấp đôi lượng điện Việt Nam đang có hiện nay. Vì vậy, để kết luận, tính cách khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một “ý đồ” nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Quốc ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị-quânsự- kinh tế để Trung Quốc có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam ở vùng Cao nguyên miền Nam nầy?
Nếu tổng hợp bảy mắc xích trên lại với nhau, chúng ta có thể hình dung được một sự phối hợp chiến lược nhuần nhuyễn về quân sự-kinh tế-chính trị. Nhưng sự phối hợp đó có thể chỉ để phục vụ cho nhu cầu của đàn anh nước lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất cảng từ lục địa Tây Nam Trung Quốc sang Thái, Lào, Việt Nam và quốc tế. Sản phẩm nhập cảng chiến lược của Trung Quốc là dầu khí, và Dung Quất sẽ là nguồn cung cấp quan trọng cho vùng nầy. Hàng ngày nhu cầu dầu thô cho vùng Vân Nam trên dưới một triệu thùng dầu và hàng trăm ngàn tấn hoá chất, nguyên vật liệu cần thiết cho nhu cầu sản xuất hoá chất ở đây. Mở được các thông lộ vể phía Nam qua ngõ Việt Nam, Thái Lan và Cambodia sẽ hạn chế phí tổn rất lớn cho việc chuyển vận hai chiều so với việc xuyên qua lục địa Tây Đông để tiếp cận với thế giới bên ngoài qua ngõ Quang Đông, Quảnng Châu, Thượng Hải hay Hong Kong. Và còn biết bao lợi ích khác nữa cho Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự và chính trị khi vùng Vân Nam được khai thông về đường thuỷ, đường bộ và trực tiếp đổ ra biển qua những mắc xích kể trên.
Âm mưu Hán hoá Cao nguyên miền Nam
Qua những phân tích vừa nêu trên, chúng ta có thể hình dung một viễn ảnh khá rõ ràng là Trung Quốc đã thể hiện nhiều dấu hiệu chứng tỏ âm mưu thôn tính vùng đất trù phú của Việt Nam, và vùng đất nầy cũng là cột xương sống nối liền Bắc Nam. Một khi chiếm lĩnh vùng nầy dù dưới hình thức nào đi nữa, TQ sẽ nắm trọn khả năng khống chế Việt Nam. Và Việt Nam sẽ không có lựa nào khác là phải…tiếp tục đi theo “bảng chỉ đường của TQ” mà thôi.
Hiện tại, TQ đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm ở cao nguyên Bolloven bên Lào, bên Cambodia, và “nhập nhằng” tóm gọn hai dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một tiến sĩ người Chăm cổ suý. Nhóm nầy cũng được sự hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng Cao nguyên hiện tại đã được các hội thiện nguyện Hoa Kỳ yểm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
Theo tin tức được loan tải trên mạng, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên hiệp Quốc công nhận qua Department Of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế Tham Mưu (consultative status) kể từ năm 2009 nầy.
Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến hồ sơ lên Liên Hiệp Quốc và Thuỵ Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ Lưu vong Chăm (Cham’s Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung Việt Nam, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Theo như dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các chính phủ.
Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay “lông lá” của TC mới có thể thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu dự định đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TQ), nơi có một cộng đồng thiểu số Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang định cư tị nạn tại đây để chạy loạn vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân chúng Chăm năm 988 (theo Georges Maspero trong quyển sách Le Royaume de Champa). Nhưng sau đó, để tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, trụ sở dự định mới sẽ là Thuỵ Điển, nơi có một tiến sĩ người Chăm định cư để tạo danh nghĩa nhằm gây áp lực với Việt Nam cộng sản khi cần thiết.
Câu hỏi được đặt ra là TQ giúp người
Chàm hải ngoại nhằm mục đích gì?
Câu trả lời giản dị sẽ là, TQ muốn hoàn toàn khống chế Việt Nam trong lãnh vực kinh tế-quân sụ-chính trị qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần. Nắm được cao nguyên nầy, TQ sẽ biến vùng nầy thành một vùng “lệ thuộc” như miền đất Tây Tạng năm 1959. Đã siết được yết hầu của Việt Nam rồi, mặc nhiên TQ có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của Việt Nam trong mọi tình huống. Và biết đâu trong một tương lai không xa sau đó, Việt Nam có thể sẽ là một tỉnh “lẽ” của TQ?
Nếu viễn ảnh trên đây trở thành một sự thật thì rõ ràng, điều nầy sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt.
Chúng ta phải làm gì
trước chiến lược đen tối của Trung Cộng?
Đây là câu hỏi được đặt ra… vấn đề “phải đoàn kết lại” để chống “Trung Cộng”.
Câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi con dân Việt dù ở quốc nội hay hải ngoại. Đứng trước việc khai thác quặng mõ bauxite trên, Việt Nam cộng sản trong một “chiêu thức “ khác, qua tác động của những nhóm, hội đoàn ngoại vi… đã khơi dậy lòng yêu nước của người Việt khắp nơi trong đó có cả người Việt hải ngoại cùng nhau “đoàn kết” lại để “chống Trung Quốc”.
Đây là một chiêu thức độc đáo làm cho một số người Việt hải ngoại có thể “siêu lòng” trước những lời chiêu dụ trên. Xin đừng quên, 84 triệu con dân Việt (trừ bớt số lượng đảng viên đảng cộng sản) đang còn chịu đựng ách thống trị hà khắc của một chế độ chuyên chính và độc tài, bóp nghẹt tất cả mọi khát vọng tự do dân chủ của người dân. Do đó, chúng ta cần phải cảnh giác để khỏi vướng vào vòng kim cô của Nghị quyết 36.
Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta phải nhắm
vào hai mặt có tính cách quyết định:
- Thứ nhất, tiếp tục vận động và phối hợp với những nhà dân chủ trong nước, chuyển tải tin tức cập nhật ngõ hầu cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam.
- Thứ hai, kêu gọi sự yểm trợ của thế giới tự do qua chiến lược cụ thể của Trung Cộng nhằm tiến chiếm Việt Nam dưới một hình thức “thực dân” mới, không cần động binh để chiếm đóng như ngày xưa nữa.
Hai việc nầy cần phải được thực hiện song hành cùng một lúc và việc cần phải làm chính yếu là nỗ lực vận động để thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam phải là ưu tiên hàng đầu.
Thay lời kết
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Quốc và lý tính thuần phục của Việt Nam hiện tại.
Đặc biệt qua sự kiện khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên, không còn gì để chối cải nữa là Việt Nam hoàn toàn thụ động trước tiến trình chiếm cứ vùng Cao nguyên miền Nam Việt Nam của Trung Quốc. Việt Nam hòan toàn nằm trong gọng kiềm của Trung Quốc qua các mắc xích phân tích trên và lộ trình biến cải Cao Nguyên thành một Tây Tạng thứ hai sẽ là một hiện thực trong một tương lai không xa.
Để kết luận, xin mượn lời nói đầu của Báo Sinh Viên Yêu Nước mới vừa được thành hình ở Việt Nam vào ngày 23 tháng 2 năm 2009:
Chúng tôi đã từng cùng các bạn xuống đường tham gia
các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền
của đất nước. Đã từng chua xót, chảy nước mắt khi thấy
lòng yêu nước cũa mình bị nhà nước Việt Nam ngăn chận.
Có đất nước nào trên thế giới nầy mà lòng yêu nước
của nhân dân bị ngăn cấm?
Có đất nước nào mà lòng yêu nước của nhân dân
bị chế độ coi là tội phạm?
Có đất nước nào mà lòng yêu nước của nhân dân
phải đồng nghĩa với yêu kẻ xâm lược?
Và có đất nước nào mà kẻ xâm lược được ca ngợi và bảo vệ?
Còn người yêu nước thì phải ngồi tù?”
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
Đệ nhứt Phó Chủ tịch Đại Việt Quốc Dân Đảng
West Covina, 3/2009
Thứ Ba, 24 tháng 3, 2009
THƯ GỞI BẠN BÈ
Thư gởi Bạn Bè (từ Saigon)
Tạ Phong Tần
Tạ Phong Tần
Thư gởi bạn bè • Tạ Phong Tần.
Tạ Phong Tần
Tạ Phong Tần
Thư gởi bạn bè • Tạ Phong Tần.
Thư này được gởi đi từ địa chỉ mail chính thức của tôi (taphongtan@ gmail.com) .
Trong trường hợp xấu nhất là tôi bị bắt, tôi không thể tự mình công khai thư này được thì tôi nhờ bạn bè tôi giúp tôi công bố thư này cho các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước, các tổ chức đấu tranh vì quyền con người trên thế giới được biết một sự thật mà chế độ bạo quyền cộng sản Việt Nam đang cố tình che giấu dư luận và thế giới bên ngoài.- Những ngày qua, Văn phòng Luật sư Pháp Quyền (VPLS PQ) bị khủng bố trầm trọng. Hàng loạt cú đánh hội đồng dơ bẩn với đủ thứ chiêu thức hèn hạ được tung ra nhằm vào Luật sư Lê Trần Luật (Trưởng Văn phòng) và tôi (người trợ lý tin cẩn của ông Luật). Từ dựng đứng sự việc không có thành có, xúi giục khách hàng thưa kiện hoặc hủy hợp đồng, cắt cử khoảng 20 thanh niên bặm trợn túc trực canh gác suốt ngày đêm ở cửa trước, cửa sau Văn phòng, ai bước chân ra ngoài cũng đều có 3-4 thanh niên đi xe máy phân khối lớn bám theo, khách nào đến Văn phòng khi đi ra đều bị những tay thanh niên kia chạy theo hỏi: “Vào đó làm gì? Văn phòng đó là lừa đảo, phản động, không được tiếp xúc”, v.v… và v.v… cho đến cản trở tự do đi lại của những người ở đây không thể ra khỏi khu vực thành phố Sài Gòn, dùng tờ báo Công an TP HCM để vu khống, bôi nhọ với ý đồ xấu xa. Đồng thời, hàng loạt Giấy mời, Giấy triệu tập của đủ loại cơ quan đoàn thể, Công an được tung ra “mời bằng vũ lực” xuyên suốt đối với ông Luật và tôi với những lý do hết sức vớ vẩn để quấy rối, cản trở chúng tôi ra Hà Nội tham gia bảo vệ cho giáo dân Thái Hà.- Tôi có quyền bất hợp tác đối với các loại Giấy mời đó, họ có thể dùng vũ lực câu lưu thể xác tôi, nhưng họ không thể bắt tôi mở miệng nói điều tôi không muốn nói. Nhưng trong tình hình VPLS PQ gặp khăn khó khăn chồng chất từ phía nhà cầm quyền Việt Nam, vì sự tồn vong của Văn phòng, vì người đồng sự của tôi là ông Lê Trần Luật, vì cuộc sống của những người tôi quý mến ở đây, tôi buộc phải nhẫn nhục nhún mình trước cường quyền bạo ngược để liên tục suốt 10 ngày đến Công an quận Gò Vấp “làm việc” theo ý họ. Những tờ giấy mời ấy được ký bởi Công an quận Gò Vấp nhưng người làm việc với tôi không phải là công an quận, theo tôi nhận định ông ta ở cơ quan cấp cao hơn cấp Thành phố nữa. Ông này khoảng hơn 50 tuổi, trán hói, tóc bạc, nói giọng Hà Nội. Ông ta tự giới thiệu mình tên là Nguyễn Tiến Tùng, và tự hào nói rằng ông Trần Khuê, ông Đỗ Nam Hải đều biết ông ta.- Về nội dung của những buổi làm việc, họ yêu cầu tôi xác nhận những bài viết đăng trên blog Công Lý và Sự Thật là của chính tôi viết, hoặc chính tôi post lên trang blog CL&ST mà nguồn bài lấy từ các trang BBC tiếng Việt, RFA tiếng Việt, những lần tôi trả lời phỏng vấn các đài nước ngoài sau vụ VPLS PQ bị kê biên tài sản trái pháp luật, vụ tôi bị họ bắt trái pháp luật về Công an quận Gò Vấp. Tôi đã xác nhận tất cả những điều này vì chẳng có gì phải giấu giếm hay dấm dúi cả.- Tất cả những bài tôi viết đăng trên blog cá nhân của tôi đều có căn cứ xác thực về nội dung và số liệu từ báo chí trong nước hay từ cơ quan truyền thông BBC, và đó là quan điểm, ý kiến của tôi về tình hình đó.- Tôi biết họ đang cố gắng chống chế với thế giới bên ngoài về tình hình nhân quyền ở Việt Nam đang bị xâm phạm như thế nào. Họ muốn đàn áp, muốn bịt miệng, muốn ngăn cản không cho tôi bày tỏ chính kiến của tôi về tình trạng đất nước mình, họ muốn tôi xác nhận rằng ở Việt Nam người dân đang được hưởng “nhân quyền” đầy đủ.Nhưng bằng vào việc tôi phát biểu quan điểm mà phải liên tục “làm việc” với cơ quan Công an thì ai cũng phải hiểu rằng quyền tự do bày tỏ quan điểm của người dân có hay không rồi. Thử hỏi trên thế giới này, ngoài các quốc gia cộng sản ra, có công dân nước nào bày tỏ quan điểm của mình về tình hình đất nước mình, về tình hình thế giới mà bị mời lên mời xuống, phải bỏ cả công ăn việc làm để liên tục “làm việc với công an” như ở Việt Nam không (cụ thể là trường hợp của tôi)?- Tôi không phải là người bảo thủ, nên khi họ bảo rằng tôi viết bài phát biểu quan điểm bảo vệ quyền tự do thông tin, quyền được bào chữa của bị cáo mà tôi gọi đó là “nhân quyền”, “quyền con người” là tôi đã dùng một khái niệm quá rộng cho một vấn đề nhỏ. Tôi công nhận họ nói như vậy cũng đúng, và tôi dùng từ như thế là “sai” tức dùng từ không chính xác. Chớ “sai” không có nghĩa là toàn bộ nội dung bài viết từ trên xuống dưới đều sai. Tôi đồng ý với họ là sau này tôi viết cái gì thì tôi sẽ dùng từ ngữ chính xác hơn, chỉ thẳng vào vấn đề, vào nội dung, vào con người cụ thể, không dùng khái niệm quá rộng cho vấn đề nhỏ. Ngoài ra, tôi không cam kết bất cứ điều gì với họ.- Tất cả các buổi làm việc họ đều đặt máy quay phim. Tôi biết họ muốn dùng hình ảnh của tôi nhằm vào một mục đích khác. Tôi muốn nói rõ cho mọi người biết rằng: Tôi là người miền Nam, người miền Nam có thói quen khi nói chuyện dùng chữ “Dạ” trả lời với người lớn tuổi hơn mình, đó là thể hiện lối giao tiếp lịch sự, có văn hóa. Từ “Dạ” đồng nghĩa với từ “Vâng” của người miền Bắc, có nghĩa là “đồng ý”, “thống nhất” chớ không có nghĩa là khúm núm, quỳ lụy, sợ sệt người đối diện.- Những lần trả lời phỏng vấn của tôi với các đài nước ngoài đều là tường thuật sự thật về việc kê biên tài sản của Văn phòng và tôi bị họ bắt giữ trái pháp luật như thế nào, tôi không bịa đặt, thêm thắt chuyện gì.- Bạn thân của tôi- bà Nguyễn Thị Mỹ Nghệ (mẹ ruột cháu bé 13 tuổi bị cô giáo trường Hai Bà Trưng khủng bố tinh thần đến bị “stress cấp” mà tôi có loạt bài viết đăng trên blog CL&ST) nói cho tôi biết rằng có hai người xưng là Công an Thành phố Hồ Chí Minh đến nhà gặp vợ chồng chị Nghệ, đưa cho vợ chồng chị Nghệ xem một loạt giấy photocopy chữ viết tay giả mạo chữ viết của tôi, nói rằng chính tôi viết những tài liệu ấy tung vào trường Hai Bà Trưng để “vận động quần chúng”. Chị Nghệ đã trả lời 2 người Công an này rằng tài liệu ấy là giả vì chữ viết chỉ hao hao giống nét chữ của tôi chớ không phải chữ viết của tôi. Với mối quan hệ bạn bè hơn 20 năm với tôi, chị Nghệ biết rõ tính tôi và khẳng định với họ rằng tôi không bao giờ làm cái việc tung tờ rơi ấy cả thì 2 Công an kia mới làm thinh. Điều này cho thấy rằng, để đạt được mục đích, ý đồ đen tối, họ có thể giả mạo, dựng đứng bất cứ thứ gì, bất chấp ý nghĩa chính quyền thì phải có hành vi chính đáng mà ngang nhiên dùng thủ đoạn rất “tà ma ngoại đạo”.Với quyền lực nhà nước, tòa án, nhà tù, lực lượng vũ trang trong tay, với bản chất dối trá, lừa bịp, thích sử dụng lưu manh, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thể làm giả đủ thứ tài liệu, hình ảnh, gắp lửa bỏ tay người, dựng lên bất cứ tội danh gì, vụ án gì để gán ghép cho tôi, bôi nhọ danh dự cá nhân tôi, hoặc để lừa bịp thế giới bên ngoài rằng tôi đã đồng ý với họ điều nọ điều kia, v.v… và v.v…- Các bạn chỉ nên tin khi chính mắt các bạn nhìn thấy rõ, tay của các bạn sờ trúng chính con người tôi bằng xương bằng thịt đứng trước mặt các bạn, và tôi nói lên tiếng nói của mình một cách độc lập, chớ không phải các bạn nhìn thấy tôi thông qua các phương tiện kỹ thuật khác. Các bạn chỉ nên tin lời tôi khi tôi được tự do phát biểu, chớ không phải tôi nói trong tình trạng trước họng súng, lưỡi lê hay bởi những người tôi yêu quý đang bị đe dọa.- Tôi không phải là người của bất cứ đảng phái, tổ chức nào. Tôi không có tài sản, không có gia đình riêng. Vì vậy, những điều tôi đã từng làm, đã từng viết trên blog của tôi không hề chịu sự chi phối của bất cứ ai, tôi không có mục đích chính trị, tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả xấu nhất để bao vệ danh dự của mình. Họ có thể bỏ tù tôi, có thể giết tôi, nhưng họ không thể bắt tôi cam kết bất cứ điều gì với họ. Nếu họ bắt tôi tội “Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN” thì đó là niềm vinh dự cho tôi (còn tốt hơn những người khác bị vu cho tội “trốn thuế”, “lừa đảo” hay “tàng trữ ma túy”), vì tôi sẽ là bằng chứng sống cho việc quyền con người bị xâm phạm thô bạo ở Việt Nam.- Họ muốn tuyên truyền như thế nào là việc của họ, nhưng tôi không có trách nhiệm phải nói theo họ, không có trách nhiệm phải ca ngợi cái điều mà tôi thấy nó bẩn thỉu. Họ có thể lấy cớ rằng cơ quan giám định (thuộc Sở Văn hóa- Thông tin- Truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh hoặc cấp cao hơn nữa cũng vậy) kết luận những bài viết của tôi là “phản tuyên truyền”, “phản động”, “kích động” hay gì gì đó để kết tội tôi. Họ cho rằng tôi “xuyên tạc”, “bóp méo” hay “nói xấu Nhà nước”, “nói xấu Đảng CSVN”; có nghĩa là trong vụ việc của tôi, người “bị hại” là Nhà nước VN, là Đảng CSVN, vậy thì giao cho cơ quan phụ thuộc vào Nhà nước (lãnh lương, được chức vụ), phụ thuộc vào Đảng (lãnh đạo, chỉ huy) giám định thì có khác nào “giao trứng cho ác”, “thằng cha” bảo gì thì “thằng con” đương nhiên răm rắp nghe theo. Tôi không bao giờ công nhận cái loại giám định vớ vẩn ấy bởi lẽ cơ quan này chỉ là loại công cụ tay sai, lãnh đạo cơ quan này là công chức - Đảng viên, giám định theo chỉ đạo của đảng CSVN thì làm gì có tính khách quan mà “giám” với chả “định”.Việc giám định chỉ thật sự khách quan khi cơ quan giám định là các tổ chức văn hóa quốc tế và chuẩn mực để đối chiếu, so sánh khi giám định là chuẩn cả thế giới đồng công nhận (trong đó có Việt Nam), cụ thể là bản Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới (1948) mà Việt Nam đã tham gia ký kết ngày 24/9/1982.- Nếu tôi bị xét xử trong một phiên tòa bưng bít, không có bạn bè, không có truyền thông nước ngoài tham gia, thì các bạn hãy hiểu rằng đó là một phiên tòa của kẻ cướp, của bạo quyền độc tài, trong cái gọi là phiên tòa đó không tồn tại pháp luật, không tồn tại công lý, mà chỉ có bạo quyền cộng sản đang ngang nhiên chà đạp lên quyền con người, chà đạp lên quyền tự do bày tỏ quan điểm của tôi chỉ vì quan điểm của tôi trái với ý muốn nhà cầm quyền cộng sản, vì quan điểm của tôi vạch trần bộ mặt xấu xa, bản chất lưu manh của bạo quyền. Có thể sau đó, họ lại dùng báo chí làm tiếp trò bẩn bôi đen sự thật như họ đã làm với 8 giáo dân Thái Hà: “Các bị cáo đã cúi đầu nhận tội” dù giáo dân không hề nhận tội. Các bạn hãy tin rằng trong những phiên tòa như thế này, tôi không bao giờ cúi đầu khuất phục họ.- Trong khi tôi viết những dòng này, tâm hồn tôi rất bình thản, bởi lẽ tôi đã ngộ ra rằng, chính Đức Giê-su ngày xưa khi lâm nạn Ngài cũng bình thản như thế, “Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”; còn tôi, tôi nói rằng: “Lạy Chúa, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa”.Thư này sẽ còn được tôi bổ sung tiếp (nếu có thể).Đính kèm thư này là ảnh chụp các loại Giấy Mời trong thời gian gần đây.
Sài Gòn, ngày 22/3/2009
Tạ Phong Tần
Tạ Phong Tần
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)